“Chút rượu
hồng
đây, xin rưới
xuống,
Giải
oan cho cuộc
biển
dâu này.”
(Ta về - Tô Thùy Yên)
Bài này tập hợp nhiều đoạn văn rời và ngắn, cốt đi kèm nhiều hình ảnh thu thập từ mùa hè 1963 lúc nhóm nguời viết ở các lớp Đệ Thất đến Đệ Tam (lớp 6-10 bây giờ), mới lên ghế trung học hay sửa soạn vào đời trong bầu không khí dầu sôi lửa bỏng của chính trị miền Nam do biến cố Phật giáo. Và kéo dài đến bây giờ, mùa hè 2013, lúc người viết đã chạm tuổi hưu trí bắt buộc trong bối cảnh Việt Nam, qua cơn dâu bể lớn nhất khi Saigon đã đổi tên đổi chủ.
Nhưng hơn thế, bài này mong ghi lại những mảnh đời, trong một thời gian
dài của thế hệ lớn lên ở miền Nam trong hai hoàn cảnh và ở hai không gian hoàn
toàn khác biệt. Bài viết cũng nhằm ghi lại vài nét chấm phá cho những bức
ảnh lịch sử, ghi nhận vài sự kiện tuy
không tránh khỏi chủ quan, nhưng không có ý phán xét, phê bình hay lý luận sâu
sa.
Thế hệ đó nay thuộc vào giới trung niên. Vì đã lớn lên trong chiến tranh
ở miền Nam, thuở niên thiếu đã mang nặng hình ảnh và day dứt của cuộc chiến,
không có được những bình yên trong ý nghĩ tuổi thơ hay cái hồn nhiên mê đá bóng
hay đua xe máy như lớp thiếu niên cùng thành phố lớn lên sau này ở quê nhà.
Những ám ảnh về cuộc chiến trở thành một hành trang nặng nề lúc ra đi sống ở
nước ngoài trong một thời gian dài. Vì thế luôn ấp ủ chút kỷ niệm đẹp về tuổi
thơ ở quê nhà, nâng niu từng hình ảnh với người thân trong gia đình và bạn bè
bằng hữu lúc còn sống ở đó.
Ra đi và sống ở
nhiều nước trên thế giới: Canada, Mỹ, Pháp và vài nước khác do công việc đòi
hỏi. Nhưng tâm tư vẫn luôn quay về chốn cũ, hoài niệm những tia nắng ấm quê
hương trong cái giá buốt của tuyết lạnh Bắc Mỹ, nhớ lại những dòng sông nơi quê
nhà mỗi lần đứng bên dòng St-Laurent ở Quebec hay dòng Potomac chảy qua Washington, D.C, ngay cả lúc sang đến tận Phi
châu làm việc, chịu cơn nóng thiêu đốt vì thiếu mưa, vẫn còn bâng khuâng nhớ
đến những cơn mưa dài của Sài Gòn thuở nào.
Người viết cũng đã
ghi lại nhiều hình ảnh xứ người bằng văn chương, nhưng lại chủ ý ghi dấu tâm tư so sánh với quê nhà, tựu
chung cũng là để “tìm lại khoảng thời gian đã mất”, như Marcel Proust đã viết.
Đôi khi hơi thiếu khách quan vì đã ca tụng quê hương mình thái quá .
Thế hệ trên tương
phản với các thanh niên bây giờ ở quê nhà, sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến
tranh Quốc Cộng. Những lớp trẻ mới này phần lớn không còn mang chút dấu vết gì
về cuộc chiến, sống thuở thơ ấu vô tư của một đất nước thanh bình và trưởng
thành trong một xã hội tương đối bắt đầu no đủ, suốt ngày nghe các phương tiện
truyền thông nhắc nhở chuyện hội nhập quốc tế. Họ luôn ôm những khao khát trông
nhìn ra thế giới bên ngoài, giờ đây nhờ vào những tiến bộ khoa học, các mạng lưới tin học phổ
cập khắp toàn cầu, thêm vào tin tức thế giới được cập nhật hóa từng phút qua
các kênh mạng thông tin. Rồi nhờ các cơ hội nghề nghiệp, được thỏa mộng viễn du
qua các chuyến công tác, để từ đó luôn ghi vội hình ảnh những chuyến đi, con
người đã gặp, những gì đã thấy đã nghe. Và trong cái sôi nổi được thấy cảnh mới
người lạ, cùng óc cầu tiến của người
trẻ, thấy cái gì của bên ngoài cũng hay cũng đáng học.
Lúc lý thú nhất có
lẽ là khi hai thế hệ đó gặp nhau. Cùng nhận ra mẫu số chung là những băn khoăn,
mong ước cho một đất nước tươi sáng phú cường. Cùng chia xẻ những ước vọng và
dự phóng tương lai cho quê hương bằng những hình ảnh từ xứ người. Chúng ta hãy
tưởng tượng các cuộc gặp gỡ ấy qua những hình ảnh của Saigon xưa và nay, và tự
xem thử những thay đổi lớn trong chính ta khốc liệt đến dường nào.
Một người ở xa có
thể ngồi viết những dòng này từ một khu phố nhỏ bên dòng St-Laurent. Và người
trẻ kia đang viết ở quê nhà một chiều mưa, ngồi trong một căn phố nhìn ra sông
Saigon. Nhưng cả hai đều muốn trao đổi qua những dòng bút ký chung, chút gì gọi
là “tình tự dân tộc”, là điều muốn nói lên với rất nhiều người khác cùng dòng máu
Việt ở bất cứ đâu. Về Saigon ngày xưa 1963 hay Saigon bây giờ 2013 sau 50 năm,
dù trời Saigon đang mưa hay nắng.
Saigon 1963
Chính phủ Ngô Đình Diệm |
Trừ những lúc có cơn mưa nặng hột và dài thường xuyên đổ xuống xối xả, trời Saigon oi bức lạ thường hè năm đó, do không khí chính trị ngột ngạt của miền Nam với biến cố Phật giáo và những năm tháng cuối cùng của Chính phủ Ngô Đình Diệm. Các trường trung và đại học cùng tham gia vào không khí sôi nổi đó một cách bộc phát mà không suy nghĩ sâu sa. Nhưng sau một đời người nhìn lại và đọc nhiều sách lịch sử mới hiểu lúc đó mình chỉ là những con chốt.
Phong trào tranh đấu Phật giáo 1963 |
Sư biểu tình 1963 |
TT Thích Quảng Đức tự thiêu 1963 |
Quốc Hội VNCH |
Tuổi thanh thiếu
niên lúc đó tràn đầy lý tưởng. Không khí học hành sôi nổi, các trường thi đua
trong các kỳ thi tổ chức qui củ. Giấc mơ du học hình thành nơi một số nhỏ có
khả năng hay điều kiện. Ý tưởng học xong trở về nước phục vụ còn ngút ngàn. Nền
tảng tổ chức một xã hội công dân bắt đầu hình thành, cho thanh niên mới lớn
giấc mơ giản dị là sẽ phục vụ đất nước bằng con đường học vấn, giống như bất cứ
người trẻ nào trong các nước láng giềng. Mong ước xây dựng một Nam Việt Nam trù
phú hùng cường, tương tự giấc mơ của Nam Hàn ba thập niên sau, nung nấu tâm can
những người trẻ, dù việc thực hiện giấc mơ đó được hay không sau này mới hiểu
là do “thiên định”.
Phương, Định, Hùng, Mười Lăm |
Nhưng sự ổn định
chấm dứt sau cuộc chính biến 1/11/1963, chính phủ Ngô Đình Diệm được thay bằng nhiều chính phủ
lâm thời, có khi chỉ kéo dài vài tháng. Các xáo trộn kinh tế, xã hội, giáo dục
nặng nề nhiều năm sau đó, đã là hệ quả tất nhiên của cuộc thay đổi chính trị này
mà lịch sử mấy chục năm sau mới giải thích được.
Các năm 1963-1975
Một số thanh niên
du học, bao gồm các người viết, đã rời nước ra đi trong hoàn cảnh đó, nhìn lại
đất nước quê hương từ xa như chứng nhân thụ động bất đắc dĩ.
Những chính phủ quân nhân hay dân sự trên đã làm rối đi chính trường miền Nam. Cuộc chiến đồng thời leo thang trầm trọng, rồi thành khốc liệt trong suốt 12 năm tiếp nối khi miền Bắc gia tăng áp lực. Rồi kéo theo sự hỗ trợ của Hoa kỳ và đồng minh. Cuộc chiến bước sang giai đoạn hủy diệt, thay đổi toàn bộ xã hội miền Nam. Những tang tóc đau thương hằn lên dấu vết cho từng gia đình. Từ bên kia trái đất, chúng tôi theo dõi truyền hình hàng đêm tin tức chiến sự quê nhà, rồi thao thức trằn trọc thâu đêm.
Mậu Thân 1968 |
Cuộc chiến đi vào
khốc liệt hơn từ sau 1971, với sự đổ vỡ mất mát toàn diện cho miền Nam từ
30-4-1975. Biến cố 1975 như một cuộc đổi đời. Đám sinh viên tốt nghiệp trở
thành lạc lõng, mất định hướng hoàn toàn trên xứ người, rải rác ở nhiều nước
trên thế giới. Nhiều người lại nặng gánh, phải lo cho cả gia đình mới sang định
cư. Hình ảnh VN xa mờ dần, rất đông tự nhủ cố gắng “xin nhận nơi này làm quê
hương” trên các miền đất hứa, coi như từ nay chia tay vĩnh viễn miền đất bên
kia địa cầu.
Nhưng rồi cũng đến một ngày với nhiều sự thay đổi. Vì nhu cầu kinh tế cấp bách, miền đất đó phải thay đổi phần nào các chính sách. “Đổi Mới” là tên gọi cho hai thập niên mở cửa nền kinh tế, áp dụng các chính sách thị trường dù còn hạn hẹp. Kết quả là đã có những tiến bộ vật chất nhất định, như các chỉ số tăng trưởng, bộ mặt đời sống được cải thiện đáng kể ở những thành thị, dù nhiều vùng nông thôn còn chìm đắm trong nghèo khó cố hữu.
Một số người chợt quyết định muốn trở về nhìn lại quê hương, dù trong tâm tư “Từ Thức về làng”. Và một trong những người đó ghi lại tâm trạng như sau.
Những năm sau 1975 về thăm Saigon: Còn Đó Nỗi Buồn
Người viết phải trở về Sài Gòn nhiều lần trong đầu thập niên 90, mới chợt tìm thấy một lúc muốn ngồi xuống, bình tâm viết lại vài xúc cảm về thành phố đã ôm ấp biết bao kỷ niệm đẹp của tuổi mới lớn, với bao hoài bão lý tưởng cho cuộc đời sau này.
Vốn sinh ra ở
Hà Nội, thời trung học tôi nâng niu những quyển sách Tự Lực Văn Đoàn của các
nhà văn kể chuyện về đất Thăng Long. Những năm gần đây nhất, đọc bao tùy bút và
hồi ký ở hải ngoại phần lớn nói về Hà Nội, tôi cũng tưởng mình sẽ chỉ muốn viết
về thành phố huyền thoại ấy. Nhưng sau nhiều chuyến công tác ngắn ghé thăm Việt
Nam, tuy Hà Nội có quyến rũ, thơ mộng nhưng tôi chợt nhận ra sự gần gũi chỉ tìm
thấy ở Saigon.
Đó mới là
“thành phố của tôi”, trở về mà không phải cần bản đồ để tìm đường, không phải
nhờ người hướng dẫn du lịch, chỉ chỗ xem phong cảnh hay vài chỗ ăn uống nổi
tiếng. Những con đường quen thuộc, chỉ đổi tên mới, vẫn còn đó. Những hàng me
ướt lá sau cơn mưa chiều vẫn còn nguyên vẹn nét trữ tình, chờ đợi... Mái tóc kẻ
bộ hành bây giờ đã ngả dần sang hai mầu, khác xa những ngày tháng cũ thuở trung
học tóc còn mướt đen ướt đẫm vì chạy vội dưới cơn mưa rào, hay mơ mộng thả bộ
đón nhận những hạt mưa bụi bay nhẹ theo lối về một trường nữ quen thuộc sắp đến
giờ tan học.
Góc Lê Lợi và Tự Do |
Cái nóng oi
bức, bụi khói của những chiếc xe Honda vẫn là bức tranh khó quên của đường phố
Sài Gòn dạo trước. Sau hơn hai mươi năm với dân số tăng gần gấp ba, số nhà cửa,
xe cộ làm thành phố chật hẹp lại nhiều và lộ rõ áp lực nạn nhân mãn của các đô
thị Á Châu bây giờ. Tuy nhiên khu vực công trường ở trước nhà bưu điện chính
bao quanh nhà thờ Đức Bà vẫn còn vẻ đẹp uy nghi, giữ lại nét diễm lệ của nơi
vẫn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông.
Quán Hương Lan (Bưu điện Saigon) |
Chợ hoa Nguyễn Huệ 1971 |
Những ngày trở lại Sài Gòn tuy ngắn ngủi, nhưng tôi đã bỏ khá nhiều thì giờ tản bộ trên những hè phố quanh khu trung tâm Tự Do-Nguyễn Huệ-Lê Lợi. Đặc biệt mỗi sáng sớm, tôi có thói quen đi dạo từ khu khách sạn “mini” ở đường Tự Do xuống nhà thờ Đức Bà, qua công trường “con Rùa” nơi có viện Đại Học. Rồi trở lại đường Duy Tân, tôi qua trường Luật tìm ngôi nhà cũ của mình ở góc Hiền Vương. Con đường cây dài bóng mát ngày xưa bây giờ đã khác đi nhiều , đã mất bớt cây cối và chật hẹp bẩn hơn vì những quán hàng la liệt hai bên vỉa hè. Ngày xưa con đường này chỉ toàn những villa nhà ở sang trọng, bây giờ mở những cửa hiệu nhỏ, hay được đập đi thành những khu văn phòng cho người ngoại quốc thuê.
Dừng lại trước
địa chỉ cũ của ngôi nhà dấu yêu, nơi tôi đã sống những ngày thơ ấu, tôi bàng
hoàng khi thấy căn nhà đó biến mất và được thay thế bằng cao ốc sáu tầng trụ sở
của một hãng thuốc Thuỵ Sĩ. Cảm xúc vì tiếc nuối, ngỡ ngàng dâng lên mãnh liệt,
nhắc nhở thực tại Từ Thức về chốn cũ. Tôi bắt đầu những ngày ở Sài Gòn chỉ đi
tìm về những nơi hay lui tới dạo trước, cố quay lại những khúc phim cũ trong ký
ức để so sánh với những cái mình thấy bây giờ.
Đầu tiên tôi
tìm lại một nhóm bạn bè Y Dược cũ (ngày trước, tôi đã theo học vài tháng dự bị
cả Y và Dược khoa trước khi bỏ đi du học) lập nên nhóm J&B rất vui nhộn và
thân, chỉ chuyên gặp nhau uống cà phê buổi sáng hay thỉnh thoảng ăn nhậu với
chai whisky J&B (tạo thành tên của nhóm). Mỗi sáng thứ bảy, tụi này hẹn gặp
nhau ở một quán trước cửa nhà thờ Huyện Sĩ trên đường Nguyễn Trãi, địa điểm
được chọn lựa ở cạnh hiệu thuốc Huyện Sĩ. Ngồi nói chuyện rỉ rả mọi chuyện cũ
mới bên tách cà phê rồi kéo đi ăn sáng, đấy là niềm vui lớn cuối tuần từ lúc
tôi về lại Sài gòn.
Cổng trường Chu Văn An |
Tìm mãi mà tôi
không nhận ra đâu là khu nhà nhỏ của bác gác gian nổi tiếng của trường, nơi vẫn
bán xôi lạp xưởng và chè đậu đen đầy kỷ niệm cho hàng bao thế hệ Chu Văn An.
Tôi chỉ còn nhớ căn buồng dùng làm khu sinh hoạt học đường trong dãy nhà ngoài
cùng nơi vẫn đến tập múa hát hay hội họp làm báo. Ba năm trung học với những kỷ
niệm hoạt động học đường, lo lắng thi cử, những tình yêu học trò chợt đến chợt
đi. Vài mộng mị lý tưởng cho tuổi mới lớn khi tình yêu quê hương vừa hình thành
một cách đứng đắn, đan kết bởi những dằn vặt suy tư của một thế hệ lớn lên
trong bối cảnh chiến tranh thời đó.
Ra khỏi cổng
trường cũ, tôi tìm về Ngã Sáu lúc trước có những hàng bán nghêu đầy dẫy dọc
đường. Những chiếc ghế gỗ thấp cập kễnh trên lớp vỏ nghêu bên lề đường. Khách
gọi từng thau nghêu ra húp với nước mắm dấm ớt tỏi và những chai bia con cọp
xếp thành hàng dài. Khu đó bây giờ cũng biến mất, làm trôi thêm một kỷ niệm học
trò. Dọc theo con đường Phan Thanh Giản, vẫn còn thấy ngôi nhà cũ của trường Phan
Sào Nam. Rồi rạp Long Vân nơi đóng đô của những giờ buồn ngủ “cúp cua” học ra
ngồi xem ciné sau khi ghé mua vài cây kem Lan Hương (hiệu có hai cô bán hàng
xinh xinh!). Đi tiếp xuống Phan Thanh Giản, qua bệnh viện Saint Paul, gặp ngôi
trường Gia Long cũ, vẫn những tà áo trắng, nhưng các cô bé nữ sinh trung học
trông nhỏ hẳn đi như chỉ đang ở tiểu học.
Chùa Xá Lợi |
Chùa Vĩnh Nghiêm |
Nhưng tôi xúc
cảm nhiều hơn lúc đi theo đường Trương Minh Giảng, vượt qua cầu và ngôi chợ
nhỏ. Tìm đến ngôi chùa Pháp Hoa rất nhỏ, đặt nén hương cho những người thân có
ảnh nằm đó trong bình yên vĩnh cửu. Người đàn ông ngũ tuần chợt thấy mắt nhạt
nhoà trước hai khung ảnh gắn trên bình tro của bà nội tôi và ba tôi. Bao người
xưa đã nằm xuống, một số khác đã đi ngoại quốc, bạn bè thân đã vội bỏ mình hay
tản mát nơi đâu sau mấy chục năm?
Tôi quay về đây
chợt thấy lạc lõng dù đó là thành phố mộng tưởng của các năm dài sống ở bên Mỹ.
Những ngày ở khách sạn Sài Gòn, ba buổi đi tìm hiệu ăn. Thiếu vắng một bữa cơm
nóng đơn giản trong ngôi nhà quen thuộc, đã làm cho tôi nhận rõ cảm tưởng chua
chát mình chỉ là khách du lịch ngay trên quê hương, dù vài người thân họ hàng
vẫn niềm nở tiếp đãi. Không khí ngày Tết hay Giáng Sinh có nhộn nhịp chào đón
và gợi cảnh cũ, tôi vẫn thấy mình đếm rõ từng bước cô đơn trên các hè phố cũ
quen thuộc.
Trong ánh mắt
nhìn của đa số họ hàng, bạn bè vẫn còn chút tò mò tìm hiểu kẻ lạ trước mặt là
tôi. Và dù muốn tự dối mình, tôi cũng không thể hiện diện như những người bình
thường trong cuộc sống hàng ngày ở đây. Tôi vẫn là “người lạ”, càng cố làm ra
vẻ tự nhiên hoà đồng lại càng thấy ngượng nghịu, có chút tính chất “kịch” trong
đó. Ở vài nơi tiếp xúc làm việc, tôi càng nhận ra điều đó. Tôi đã được đào tạo
trong môi trường khác, với cách suy nghĩ
hoàn toàn xa lạ với những anh em đồng nghiệp chung quanh.
Nếu tôi đến họ
với tư cách doanh nhân hay đại diện một cơ quan nước ngoài, công việc có phần
thuận lợi hơn trong cách cư xử. Nhưng nếu tôi muốn trở về “nhập cuộc” trong một
cơ sở Việt Nam như một nhân viên bản xứ, sự hội nhập sẽ khó khăn và gần như
không tưởng. Hiệu năng làm việc chắc sẽ rất khiêm tốn vì những hàng rào ngăn
cách trong công việc và giao tế. Tôi ngỡ ngàng khi nhận ra điểm đó sau vài
chuyến về nhà. Nếu tôi còn bị xa lạ như thế sau khi đã trưởng thành ở Việt Nam
và không bị khó khăn về ngôn ngữ đối thoại, làm sao các thế hệ đàn em trẻ có cơ
hội trở về khi họ chỉ bập bẹ tiếng Việt, đọc chữ không thông, đừng nói gì đến
quay về sống và làm việc. Liệu quê hương có là một địa danh du lịch hấp dẫn
trong tâm tưởng nhóm đàn em ở hải ngoại này không?
Những ý nghĩ
trên càng đi sâu vào trong tâm tưởng tôi như một nỗi buồn gậm nhấm trong các
chuyến về kế tiếp. Tôi vẫn tâm tưởng đến những quán cơm Việt. Tôi cũng mê say
đến hiệu phở Hoà khu đường Pasteur, phở Tàu Bay Lý Thái Tổ, hay phở Tương Lai
Nguyễn Tri Phương, dù vị phở có phần kém ngày trước có lẽ vì khẩu vị mình đã
hoàn toàn thay đổi.
Tuy nhiên tôi
vẫn hay ra ăn ở Givral có chỗ ngồi thi vị. Chỉ nhớ tiếc những tách cà phê sữa
nóng bốc khói với vị bơ thơm lừng của Pôle Nord, hay bánh ngọt của Brodard và
Givral ngày xưa. Buổi trưa hay chiều đến những tiệm cơm ‘bình dân” (dù giá bắt
đầu lên khá đắt cho mức sinh hoạt của người dân ở nhà) ở đường Ngô Đức Kế có
các tiệm mới như Hoàng Yến, Hiệu 13, Cây Dù Vàng đang có tiếng, nhắc nhở đến
hiệu ăn Bà Cả Đọi với các món Bắc trong gia đình như thịt đông, dưa giá, đậu
kho, cá rán v.v... Sang hơn nữa cho cơm Việt Nam là nhà hàng Thanh Niên (đường
Nguyễn Văn Chiêm, gần nhà thờ Đức Bà) với những món miền Nam hấp dẫn, có bàn ăn
trong vườn sạch và lịch sự, mỗi tối thêm phần nhạc phụ diễn và khung cảnh thơ
mộng.
Khách cũng có
thể tìm ăn cơm Tây bình dân ở chợ Cũ nhưng vẫn tiếc nhớ món soupe bouillabaisse
hay thỏ nấu rượu vang ở Chez Albert (Đa Kao) hay Vọng Nguyệt, món bí- tết
Choeng Nam, crème de vollaille chợ Cũ. Các hiệu Tầu danh tiếng ngày xưa như Á
Đông, Động Phát, Ngọc Lan Đình thì đã đóng cửa hay đổi tên và bây giờ không còn
hiệu nào đặc biệt. Mấy hiệu Tầu trong vài khách sạn năm sao mới mở là máy chém
mà ăn không ngon lắm, chỉ được cái sang! Các món Tầu bình dân như trong các
hiệu mì phần lớn dọn lên khu Đinh Tiên Hoàng ở Đa Kao. Tiệm mì Cây Nhãn cũ ở
khu Đinh Tiên Hoàng không biết dọn đi đâu?
Mỗi lần trở về
Mỹ, tôi ít có dịp kể lại đầy đủ các chuyện trên cho bạn bè, nhất là nếu chưa đủ
thân thiết, vì đa số những lập luận hay câu chuyện đều hướng về công việc làm
ăn hay những dự định tậu nhà, mua xe mới cho đời sống “bên này”. “ Bên kia” chỉ
nên được coi như là thiên đường đã mất hay trong trí tưởng. Lý luận của bạn bè
hay họ hàng chắc nịch như vậy nên tôi cả nể thường im lặng, chỉ kể qua loa về nếp
sống ở Sài Gòn sau những chuyến công tác hay thăm viếng ngắn. Tôi chỉ quyết
định viết những điều dài dòng này về Sài Gòn sau khi đọc rất nhiều sách báo về
Hà Nội, và cảm thấy ẩn nhẫn bất công cho Sài Gòn, nơi đã cho tôi bao kỷ niệm
đẹp thơ ấu và còn cho tôi sự quen thuộc gần gũi mỗi lần trở về, dù phần lớn chỉ
để hoài niệm những ngày tháng đã qua trong thành phố thân yêu ấy.
Và có lúc tôi
đã muốn kêu to: Saigon, ôi người tình nhân đã khuất!...
Và hôm nay, hè 2013
Nhưng, người
biết rõ xã hội miền Nam ngày trước có mặt hôm nay, không thể không nói đến cái
giá đắt phải trả. Người thanh niên trẻ của xã hội mới không thể dấu mọi chuyện
với người bạn thế hệ cũ mới gặp, nói đến ở đoạn mở đầu bài viết này.
Đất nước hôm
nay chứng kiến sự băng hoại của cả một xã hội cũ trong cái hào nhoáng mới hình
thành. Con người đã thay đổi quá nhiều, đức tính thành thật trong giao tiếp
hàng ngày gần như đã mất. Các giá trị tinh thần được đánh giá dần dần bằng các thước đo vật chất.
Có nhiều dấu
hiệu cho thấy lý tưởng thanh niên đang bị lung lay không có chỗ dựa. Người ta
có thể vội vàng nhận xét nhóm người tuổi trẻ hôm nay chỉ sống vội, ồn ào, theo
đuổi vật chất, và gần như vô cảm. Nhưng thật sự họ là những người cô đơn nhất.
Một đất nước có thống kê chỉ rõ tuổi trung bình là 24, và 65% dân số dưới tuổi
35, nhưng lại ít chú ý chăm sóc giới trẻ nhiều tiềm năng đó qua giáo dục và
phát triển tinh thần.
Hiện trạng của
đất nước không tạo được cảm hứng hay nuôi dưỡng các ý tưởng phục vụ cho thế hệ
trẻ hôm nay. Tương lai với họ như thiếu chắc chắn, vì các giá trị dân chủ, công
bằng và nhân ái cần thiết cho một xã hội hiện đại đều thiếu vắng. Ngay cả sự
tiến bộ kinh tế, điểm sáng của hai mươi năm qua, cũng đang trở thành mong manh
tạm bợ.
Tăng trưởng đã
chậm lại rõ rệt từ vài năm nay do sự bế tắc chính sách, điển hình nhất là do sự
chi phối của các bè nhóm vì lợi ích riêng tư. Đồng thời phẩm chất cuộc sống đi
xuống, nhiễm độc môi trường và thức ăn trở thành mối đe dọa trực tiếp hàng ngày
cho đời sống của mọi giai tầng xã hội.
Trên tất cả, nền kinh tế bị đe dọa sụp đổ từ 2 năm nay, khi quả bong bóng bất
động sản và hệ thống ngân hàng có thể vỡ bất cứ lúc nào với mức nợ xấu quá mức
chịu đựng, nếu không có các biện pháp, chính sách thích hợp cấp thời. Nợ xấu
khổng lồ làm tê liệt hệ thống tín dụng ngân hàng và gánh nặng nợ công lớn không
kém hình như đang được đẩy cho các thế hệ tương lai gánh chịu, với sự dồn món
nợ công hiện tại thành những món nợ lớn tương lai qua giải pháp phát hành trái
phiếu công dài hạn.
Nhiều người bàn
đến các giải pháp kinh tế xã hội ngắn hạn. Nhưng trong con mắt chuyên viên, khó
có thể có một ‘quick fix’ (sửa chữa nhanh) hay ‘a sugar high’ (một ảo tưởng), mà phải là những
thay đổi thể chế và chính sách kinh tế cơ bản dài hạn, tái lập các giá trị nhân
văn căn bản qua giáo dục và hướng dẫn cho tuổi trẻ.
Thế hệ trẻ
không thể không biết và thờ ơ với viễn ảnh tương lai đó. Thiếu niềm tin, họ
đang trả lời bằng sự chán chường những giá trị sống hiện tại, dồn đam mê đời
sống vào các mác xe máy đắt tiền và những chiếc điện thoại smart thời trang, tỏ
lộ hừng khí tuổi trẻ đơn giản bằng các cuộc đua xe tốc độ hay, khá hơn, diễn tả
lòng yêu nước bằng cổ vũ chiến thắng bóng đá cuồng nhiệt trong các trận ‘thư
hùng’ với các đội quốc gia vùng.
Nhưng mùa hè
Saigon năm nay chợt thành ngột ngạt thêm
vì những biến cố thời cuộc, và sự sôi sục của cả thế hệ thanh niên muốn
nói lên tiếng nói yêu nước của mình. Cùng lúc các ức chế xã hội cộng thêm những
khó khăn về đời sống hàng ngày hình như đã góp phần gây thêm những tội phạm xã
hội ngày càng cao hơn, cho các dấu hiệu của một xã hội đang trên đà xuống dốc
trầm trọng.
Trong bối cảnh
đó, người viết chỉ còn biết tìm đến một dòng sông nhỏ, hay một chiều Sài Gòn đi
dạo trời mưa dưới những hàng me lá đổ, vẫn còn cố tìm về quê hương trong tâm
tưởng, dù thời gian có trôi qua và các khuôn mặt cũ đã khuất bóng. Và chợt cảm
thấy hạnh phúc muốn dừng ở đó, vì các thay đổi
lớn khác sẽ phải đến, những con người, những định chế cũng sẽ theo luật
thời gian.
Nhưng quê hương
vẫn còn đó, là dòng sông Hồng, là nhánh Cửu Long, là Hương giang, và ở đâu dòng
nước đó vẫn lặng lờ trôi, lòng có thể tĩnh lặng nhận biết mình vẫn thuộc về nó:
một quê hương không bao giờ mất, một dân tộc sẽ mãi trường tồn bên những biển
dâu, riêng tuổi trẻ hôm nay sẽ tìm lại được niềm tin như các thế hệ đàn anh của
thuở nào...
Sông Hồng |
Sông Hương |
Sông Cửu Long |
Trần Viễn Du
Bảo Nam
Tháng sáu 2013
Xin cám ơn tác giả đã cho chúng tôi "thưởng thức" một bài viết thật hay.
Trả lờiXóaTác giả có một cái nhìn về tình hình Việt Nam thật sắc bén.
à thật xót thương khi thấy tác giả phải lang thang lặn lội dưới mưa bước về những nơi chốn cũ để tìm lại, để "hoài niệm" (sic) về, một dĩ vãng không còn nữa.
Đối với tôi, quê hương VN ngày nay là một cái xác không hồn.
Hy vọng về quê hương mà tác giả bài viết gửi gấm ở cuối bài có thể là một kỳ vọng tích cực nhưng theo tôi với cái đà (momentum, élan) và sức quán tính (inertia, inertie) của một dân tộc đang lao xuống hố như hiện nay, không có thắng (hay phanh) nào sẽ hãm kịp (hay thắng nổi).
Bánh xe quán tính đó sẽ làm cho kỳ vọng của những người như chúng ta, còn đặt một hy vọng lớn cho quê hương, trở thành tuyệt vọng.
Đây là một ý đóng góp bi quan nhưng tích cực. Ai cũng nghĩ thế về VN bây giờ, nhưng sức kháng cự (survival) qua bao thế kỷ nô lệ Tàu rồi Tây vẫn còn cho ta một giải đất còn lại với 90 triệu dân vật lộn nhưng vẫn trường tồn.
Trả lờiXóaNiềm hy vọng là dân tộc này phải có ngày tỉnh dậy, có thể không trong cuộc đời còn lại của chúng ta bây giờ, nhưng trong một thế hệ mai sau rất gần đây. Chỉ nhìn bức ảnh của miền Nam ở đầu bài "Về Một Thời Tuổi Trẻ" trong cùng số báo ĐL này, và so sánh cảnh ngày nay, cũng đã có dấu vết của phát triển mở mang, tuy chậm chạp sau một thế kỷ.
Singapore và Nam Hàn là những ngoại lệ, nhưng cũng là bức gương có thể có của một quốc gia Á châu, nếu chúng ta có vận nước thay đổi với các nhà lãnh đạo thật sự vì dân vì nước.
Trần Viễn Du
Đừng tuyệt vọng, anh Vinh ơi, đừng tuyệt vọng. Bắt chước một bài hát của Trịnh Công Sơn, không tin rằng tác giả bài viết "Cơ giời, vận nước" lại xuống tinh thần như vậy! Chẳng lẽ lại làm quảng cáo cho quyển sách mới đây của Ngô Nhân Dụng tức nhà thơ Đỗ Quý Toàn " Đứng vững ngàn năm". Tác giả đã viết "nhờ đâu nước Việt vẫn còn sau ngàn năm Bắc thuộc". Sách do Người Việt ở Nam Cali xuất bản, giá 25$ US.
Trả lờiXóaTôi hoàn toàn đồng ý với thầy Vinh.
Trả lờiXóaXã hội dưới chế độ CS sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai !
Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.