Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm tình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm tình. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Mùa Thu Đất Lạnh, của Điệp hay của ai?

Mùa Thu Đất Lạnh, của Điệp hay của ai?

Mía

Không chờ đợi, nhưng mùa Thu vẫn đến, gió hiu hiu se lạnh, rồi thời tiết thay đổi dần... 
Sau vài cơn mưa, một buổi sáng, gió bỗng dậy lên, cây lá xào xạc, như nói với nhau là trời đang bắt đầu vào Thu, cây hân hoan sửa soạn được nghỉ ngơi trước Đông, lá xôn xao vui mừng vì sắp được thay mầu tươi thắm...
Ai bảo là Thu buồn, là Thu sầu, là Thu bi ai...Thu thế nào là do Tâm của mình diễn nghĩa vào thời điểm, một không gian ở nơi chốn nào đó...
Đang cô đơn hay vừa thất tình chắc Thu sẽ buồn da diết, nhưng nếu tay trong tay với người yêu thương, thì hẳn là Thu bỗng đẹp biết bao...
Dạo một vòng Laval vào mùa Thu, lá cây phong đã đổi mầu rực rỡ, vàng, đỏ, cam, tìm lại cây phong trên dốc gần pavillon Pollack, năm nay cây không đầy lá đỏ như Thu năm trước nữa...!
Trường xưa vẫn còn đó, những hàng cây phong vẫn còn đây, nhưng lá trên cây không phải là lá của năm trước, và người Laval vẫn qua lại không phải người của năm xưa...
Cứ đến miền Đất Lạnh vài năm rồi họ sẽ lại đi…vẫn là dòng đời luân chuyển...
Sau nhiều năm, đại học Laval đã thay đổi, xây cất nhiều, khang trang hơn trước..., tháng ngày chồng chất, có người đã sống hơn 50 năm ở miền Đất Lạnh, có người đã ra đi không trở lại...kỷ niệm vẫn còn, vẫn trở về...những khoảnh khắc vui buồn, thiếu thốn vật chất thời còn đi học… nhưng trong đó chất chứa sức mạnh của tuổi trẻ, ý chí tin yêu của thời sinh viên...cùng nuôi nấng giấc mơ cho tương lai, cho sự nghiệp để đạt được mục tiêu của đời người...
Tìm về kỷ niệm nơi chốn cũ, dù chỉ một hay đôi ba lần...cũng đủ mãn nguyện, dầu lần đầu đã ngỡ ngàng nhận ra nhau khi mái tóc đổi màu, hay vết thời gian đã hằn trên làn da, trên dáng vóc…
Từ đó, người ta chợt thấy như được hồi sinh, làn gió mới ấy đã làm sống lại tâm tình thời trẻ, và thổi đi những băn khoăn lo âu, khắc khoải...họ đang nối lại tình thân tưởng chừng như đã lãng quên...
Mùa Hè hân hoan gặp gỡ đã qua, nhưng Thu đến không làm Đất Lạnh buồn bã, họ đã tìm lại nhau...viết cho nhau, gói ghém, chia xẻ tâm tình của mình...
“Điệp ơi! cánh bướm năm xưa hãy nhớ trở lại...” và Điệp đã trở lại với Đất Lạnh…bài của Điệp làm người đọc bâng khuâng... xin hãy viết, viết nữa đi nhé, viết để cho Lan, cho mọi người đọc những dòng chữ mênh mang tình người, trải rộng lòng yêu thương, cho tôi được theo dấu chân Điệp viễn du trong thế giới bình yên, tràn ngập tin yêu và sức sống trong hiện tại...
Những dòng chữ của mùa Thu của BT Phụng, đã làm tôi tự hỏi: thì ra Saigòn cũng có mùa Thu mà sao tôi lại hờ hững và quá vô tình ...“ Mùa Thu Saigon lá me cũng đổi màu và cũng rụng. Những cây có dạng lá giống như lá me như cây Điệp, cây Phượng Vỹ…lá cũng đổi màu và cũng rụng khi Thu về...” nhưng câu nói dễ thương nhất có lẽ là “ Lá me non rơi nhiều đến độ thoạt nhìn ai cũng ngỡ người ta phơi cốm trên hè phố” thật lãng mạn và thơ mộng làm sao... khi ví von lá me với mầu cốm xanh của xứ Bắc...
Thu của Đất Lạnh không than khóc hay ủ rũ mà đầy mộng mơ, kỷ niệm và thương yêu. Bây giờ là lúc ta nên nhẩn nha, pha một tách trà hay sửa soạn một double expresso, bắt đầu viết lại những rung động ban đầu, thuở vừa đôi mươi, khi trái tim chúng ta từng đập những nhịp thật nhanh, vì hồi hộp hay rung động...đã đến lúc chúng ta không còn gì để mất và cũng chẳng còn gì để lại...
Hãy chia xẻ với nhau những kỷ niệm, những điều chưa nói, những bí mật của khu vườn đầy hoa cỏ xinh tươi của tâm hồn...để một mai khi ra đi, chúng ta sẽ thảnh thơi và hân hoan vì đã tặng lại cho thế gian, cho bạn bè, cho người thương, những gì tốt đẹp, vĩnh cửu nhất của cuộc sống đó là “tình thương, tình yêu và tình người...”



Nhìn Những Mùa Thu Đi

Nhìn Những Mùa Thu Đi hay Nhìn Những Mùa Thu Đến.

Khi gặp nhau, mùa hè năm nay, tôi trong Vòng Tay Cô Y Tá, như cô nhà văn nào ngày xưa đã viết quyển truyện Vòng Tay Học Trò.
Trong Vòng Tay Y Tá, người chăm sóc cho mình, trong khi trong Vòng Tay Học Trò, lo cho học trò, mai mốt tụi nó bỏ nó đi.

Thế mà cũng trốn đi.
Lấy xe về Đất Lạnh giữa Mùa Hè, sắp đến Mùa Thu.

Ngày xưa đến Vancouver, Calgary, Toronto, Ottawa, Québec, Sherbrooke, Ottawa, Montréal, mùa tựu trường lúc đó và bây giờ vẫn khi Mùa Thu đến, có gió lành lạnh như ai nói đó là gió heo may.

Có lá thu đỏ, anh nhặt tặng  em.

Có mộng mơ nhưng phải học.
Ở chương trình Điện, Théorie des Circuits I et II, của Pr Boivert, tuần nào cũng có Quizz.
Thầy nho nhỏ, khi dạy học rất đam mê.
Thầy giảng rất hay. Điều gì Thầy giảng, ba bốn phút hiểu liền.

Tôi không nhớ.
Có một phương trình gì về điện, IR=V2… gì đó, học mãi mà không nhớ.
Thầy Boisvert  ít khi cho Quizz, chỉ để anh Giao, anh Định hay anh Mười Lăm, hay Đài, hay ai đó.
Không phải không muốn nhớ, nhưng bây giờ Nhìn Những Mùa Thu Đi, quên nhiều mà nhớ ít.
Anh vẫn nhớ những ngày đó em hay mặc áo màu gì.

Nhớ anh Giao rất nhà giáo, anh Định chưa nói đã cười, anh Mười Lăm, nghe tên đã biết tính người, còn cả nhiều cây cổ thụ khác như anh Khương, hay còn sắp cổ thụ thì nhiều lắm.
Nhớ Thầy Larkin Kirwin: Nous commencons le cours avec une prière; Thầy Chassé dạy Mécanique, Thầy Pouliot lãng đãng tối ngày, Thầy Dupras, dạy Toán, có thói quen vuốt moustache, …

Tôi viết  và nhớ lại chỉ vì bao năm, một mình Nhìn Những Mùa Thu Đi.

Thu đi, cho lá vàng bay,

49 năm qua, có ai gặp lại, cũng khó nhận ra nhau.

Tôi thì dễ lắm, khi nhìn ai bạn cũ, tôi không biết đánh guitare và không biết hát, nhưng cũng nho nhỏ:
Anh Là Ai?

Ừ nhỉ.
Sao Việt Khang vẫn cứ bị tù?

Mẹ, lời Minh nói khi còn sống.

Chắc chưa sai đề đâu.

Viết cho đất Lạnh Mùa Thu,
Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Chắc cũng không không sắc sắc.

Mua Thu đó quen và gắn bó lâu nhỉ.

Vì quen và học với nhau ở Đất Lạnh Mùa Thu.
Ước gì, tôi viết được như Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương hay NNN, bây giờ đã là Lá Ngọc Cành Vàng đâu còn Hoạn Nạn Gian Nan?

Tôi viết như vừa đi đường, vừa kể truyện, như cái anh chàng nào ngày xưa cũng đã viết như vậy.
Nhưng những gì tôi viết là những gì tôi sống với bạn bè.
Không thù hằn không phản bội.

Viết để nhớ những ngày salami, laitue, Dow, Penmas khi học bổng vừa về.
Hay cũng có lúc sang, có anh chị nào cho quá giang đi Canton.

Chưa bao giờ những năm đầu 60, ở Québec, ăn món ăn VN ngon hơn Mỹ Cảnh.

Em ơi  bây giờ đã qua rồi.
Canton đã bán, bây giờ ai cũng đi Hilton, Astral, làm anh nhớ.

Hôm nay tôi lại về chốn này nghe chiếc lá rơi.
Mùa Thu.

Anh nói nhỏ.
Hoa cũng tàn phai và Thu cũng tàn phai.

Em hỏi anh viết gì?
Buồn thì nhớ, hết buồn thì lại vui, …
Tiếng hát Lệ Thanh đó, sang Montréal, không còn đi hát từ năm 1975 rồi.

Bài anh nói viết cho Đất Lạnh Mùa Thu:
Nhìn Những Mùa Thu Đi.

Mà Thu đâu?
Thì Thu đó.

Anh viết
Nhìn Những Mùa Thu Đi
Nhưng cứ mong viết một câu gì

Bài anh viết, sẽ xin để musique de fonds bài Nhìn Những Mùa Thu Đi, Hà Thanh hát.
Con gái Huế, ai hát Nhìn Những Mùa Thu Đi hay hơn Hà Thanh?
Hỏi chị Phương mấy cô Huế thế nào.

Có những người yêu, uống trà, café cùng một tách.
Chắc tình yêu như vậy.

Nhưng không, anh nghĩ sẽ đổi musique de fonds, không phải bài Hà Thanh hát, mà lấy bài Hoài Cảm. Ba bài hay nhất là Sĩ Phú, Duy Trác và Ngọc Hạ.

Anh thấy bài Hoài Cảm Ngọc Hạ hát hay, nhẹ nhàng hơn.
Bao mươi mấy năm.
Nhìn những Mùa Thu Đi hay Những Mùa Thu Đến?

Đến Đất Lạnh một ngày Thu, cách đây  lâu. 
Bây giờ mới có dịp viết về Mùa Thu.
Chỉ còn một hay vài năm nữa.

Những phút ban đầu ấy, tuổi thơ, muốn biết, muốn học hết, để về xây dựng nước, lòng không mong gì hơn.
Trả nợ đời, nợ nước.
Thế rồi.

Đến Ottawa, hai ngày ở khách sạn Lord Elgin, mỗi buổi sáng, ăn điểm tâm đều bắt đầu bằng thức ăn gì như bánh tráng, bánh đa nho nhỏ, bây giờ mới biết là rice crispies, ăn với sữa. Ngày xưa phải đi theo đường Công Lý theo hướng Tân Sơn Nhất, mới có quán bán sữa tươi.

Nếu có một đĩa xôi đậu xanh hay đậu phộng, ngon biết chừng nào.
Phi Lạc sang Tàu.
Lord Elgin, vẫn còn.
Lúc ấy 1964, chỉ mong có xe lửa từ Ottawa về Québec thật nhanh, gặp bạn bè và gặp người quen.
Rừng cây lá đổi màu, đỏ rực rỡ, vàng tươi.
Cảnh thơ mộng quá.

Đó là Mùa Thu Canada, Mùa Thu Québec, Mùa Thu Đất Lạnh của tôi.
Lần đầu.
Chắc là lần đầu nên nhớ. 
Không phải vậy.

Mấy hôm, nhìn lá Mùa Thu ở Hautes-Gorges, đẹp nhưng không phải lá Thu Québec, Laval, Đất Lạnh.

Có gì nhớ thì là chuyện của tôi.

Nhớ Tiếng Chuông Chiều Thu của Tô Vũ, ai đã hát cho tôi nghe.

Lá thu nhẹ rơi rơị
Nắng thu vàng phai phai
Ai về âm thầm nẻo cũ bâng khuâng tình xưa
Hiu hiu luồng heo may, 
Du du làn mây bay
Ai nhắn theo mây miền quê vấn vương xa đó ngàn dâu thưa
Từ miền xa tiếng chuông ngân.
Hồi buông lớp lớp theo gió vàng.
Từng cơn sóng mờ xóa dần trong sương lắng. 

Ngày lại ngày tiếng chuông tan. 
Tình thu cuộn lá thu úa vàng .
Chuông ran lời nhắc nhở .
Người em đẹp xa anh
Ðừng như lá thu phai phai dần
.

Mùa nào cũng là của em và anh viết cho em.
Hôm nay vào Thu, mùa này là Mùa Thu.
Thôi, anh không viết cho em nữa đâu.

Bây giờ em cuối Xuân.
Bên anh vào Thu.
Không nói hai đứa mình không có Mùa Thu.

Vì Mùa Thu của em là Mùa Thu của anh và cũng vậy.

Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Tôi đang viết một bài về Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Anh viết đến đâu rồi?

Bây giờ vào Thu và mai mốt Lập Đông.

Tôi muốn viết vài câu cho các bạn trẻ Đất Lạnh.

Các anh, các chị đã nhìn Nhìn Những Mùa Thu mấy mươi năm rồi.
Cũng một hai Mùa Thu nữa  rồi Lập Đông.
Mấy mươi năm Đất Lạnh.
Thế mà đã hơn hai phần ba cuộc đời. 
Thắp đuốc đi em.

Cổ Thụ. Đại Thụ đã giữ gìn Đất Lạnh mấy mươi năm.
Các em phải giữ gìn những gì các anh chị để lại.
Anh muốn có một lúc, anh có thì giờ viết về Vũ Kiện, anh chàng hút pipe tối ngày, AT, người vợ anh VK chung tình, đi Canada cùng lúc với anh. 
Anh cũng nhớ Xuân Hoa trước khi về Lacerte và Trần Bình Minh, một kiện tướng Đất Lạnh.
Cả Truyện Premier Amour của Yvan Tourgueniev.

À présent que les ombres du soir commencent à envelopper ma vie, que me reste-t-il de plus cher que le souvenir de cet orage matinal et fugace.

Cả bao nhiêu người nữa, có người về đi mò tôm và rất nhiều người bây giờ chỉ đi câu tôm hay bắt cá, mà chỉ bắt cá kình. Et la vie continue
La vie se ressemble.

Attendez que je me rappelle.

Đó là những gì anh muốn nhắc cho những người Đất Lạnh, mai sau dù có bao giờ.
Những chuyện còn lại, chỉ là … , các bạn trẻ ĐL hiểu không?

Năm tới, tháng chín,  anh về, ngồi bên những cổ thụ, đại thụ và hoa lá thì các bạn nhớ, hơn 49 năm mới có Đất Lạnh bây giờ.
Các em giữ Đất Lạnh.
Vì đó là những gì các anh các chị để lại cho các em.

Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Có một bài nào, Lệ Thanh hát,
Chiều nay có một người mãi mãi đi tìm.
Em còn nhớ đọan tiếp không?

Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Nhưng Mùa Thu này cho em.
Bao giờ em đến?

Bao giờ, em về.

Bây giờ anh mong, đến lúc này trong tuổi đời.

Tôi Nhìn Những Mùa Thu Đi nhưng vẫn còn Những Mùa Thu Đến.

Tôi mượn tựa và một câu anh bạn viết mấy năm rồi, bạn gọi là pastiche.

Đất Lạnh và tôi, hôm nay.

Tôi viết những lá thu vàng, lá thu đỏ và câu truyện, tình đầu, tình cuối hay tình bất cứ khi nào.
Rồi kết luận không biết là thật hay mộng mơ:

Anh,
Em nghe tiếng anh gọi, em sẽ về.
Hôm nay em về.
Những ngày Thu của năm nào.
Không có anh, em còn có ai.

Thì ra mấy mươi năm,
Tôi Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Năm nay, thấy có Thu Về,

Thôi,
Dù chỉ có một lần.
Dù  chỉ là nhung nhớ.
Dù chỉ là mộng thôi.

Điệp.

10/2013.



Mùa Thu Hà Nội, mùa Thu Saigon, mùa Thu Montréal

BTP
Hôm nay đang là mùa Thu ở Montréal nên tôi muốn tâm sự một chút về những nhận xét và cảm nghĩ của tôi về mùa Thu.
                                                                                                                        
Tôi được sanh ra  ở Hà Nội và sống ở đây mười bảy năm. Năm 1954 gia đình tôi di cư vào Saigon và tôi sống ở đó hai mươi mốt năm. Tôi đến Montréal tháng 5 năm 1975 và ở đây cho đến ngày hôm nay. Vì thế, tự nghĩ là mình đã từng sống khá lâu tại Hà Nội, Saigon và Montréal nên đã có nhiều lần được: “Nhìn những mùa thu đi…’’ tại những nơi này. Tôi muốn ghi lại một vài cảm xúc cũng như kỷ niệm tại ba nơi này về mùa Thu.

Khi bắt đầu biết được có sự hiện diện của mình ở trên đời, tôi chỉ là một bé trai khoảng 3, 4 tuổi. Bố mẹ tôi đông con và chúng tôi chưa đến tuổi đi học, cho nên tôi và cô em gái kém tôi một tuổi được bố mẹ tôi đưa về quê sống với ông bà Nội và Ngoại với sự trông nom của một bà vú già. Sau này chúng tôi khi ở quê, khi ở Hà Nội tùy theo nhu cầu của gia đình cũng như việc học hành.

Quê tôi là làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Gọi là quê nghe rất xa xôi nhưng thực ra làng quê tôi chỉ cách Hà Nội có chín cây số đường xe chạy. Đứng trên đê làng, tôi có thể nhìn rõ đèn điện trên con đường bờ sông của thành phố Hà Nội. Thực ra làng tôi chỉ cách Hà Nội có một con sông, đó là sông Hồng Hà.

Giống như nhiều ngôi làng khác ở miền Bắc Việt Nam, làng tôi có một nếp sống rất êm đềm. Làng tôi rất giống như được mô tả trong bài hát: “Làng Tôi’’ của nhạc sĩ Chung Quân: “Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh, có sông sâu lơ lững vờn quanh, êm xuôi về Nam…’’
           
Làng tôi nằm ở mé trong của con đê bên bờ sông Hồng Hà. Khúc đê này chạy dài từ tận đâu thì tôi không biết rõ nhưng biết được có đoạn từ đầu cầu Long Biên tới quá Tỉnh Hưng Yên.

Trong những năm còn nhỏ tôi được sống giữa thiên nhiên đầy cây cỏ.  Bố mẹ tôi có một trang trại rất lớn với nhiều cây ăn trái đủ loại và ba cái hồ trồng sen rộng mênh mông nên tôi có dịp thấy những đổi thay của vạn vật quanh mình. Vì hồi ấy còn quá nhỏ nên hầu như tôi chẳng có một chút ý niệm nào về bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông! Tuy nhiên khi mùa Thu đến, khí trời bắt đầu se lạnh và những cơn gió nhẹ đưa khí lạnh luồn lách qua làn áo mỏng làm tôi run rẩy, co ro thì hiểu là có cái gì đổi thay trong không gian quanh mình. Mới hôm nào hoa  sen còn nở đầy giữa đám lá  xanh, thắm mặt hồ. Mùi thơm của lá sen vương toả rất nhẹ trong không gian và thường tan biến nhanh khi mặt trời bắt đầu lên cao. Muốn thấy được cái mùi thơm nhè nhẹ này, cách  thực tế nhất là tìm uống phần nước mưa còn đọng trên hũng của những đài lá sen  vào những buổi sớm. Nước thật ngọt, mát và thoang thoảng thơm mùi lá sen. Khi mùa Thu tới và khi khí trời đã khá lạnh cảnh hồ sen ôi thật là tang thương! Mới hôm nào lá còn xanh, hoa còn đỏ đầy hồ, thì hôm nay  hoa lá ấy đã bị khô quắt, khô queo mang một màu xám xịt. Nước hồ hôm nào mát rượi, nay đã trở nên lạnh lẽo và xa cách vô cùng. Thu đến, cây cối trên mặt đất không  thấy thay đổi nhiều, có chăng chỉ một vài loại cây ít chịu được khí lạnh nên có chút thay đôỉ về màu sắc  nhưng không phải toàn diện cả một cây, hay cả một vùng như ở vùng ôn đới.
  
                                                                       
Một trong số những cây bị thay đổi màu sắc một phần mà không toàn diện là cây Bàng. Khi mùa Thu đến, một số nhỏ lá Bàng bị đổi màu và rụng xuống. Những ngày Thu xa xưa ấy, tôi thường thơ thẩn tìm một vài cái lá Bàng rụng, chọn những lá có màu sắc đẹp nhất, to, dầy và dĩ nhiên phải lành lặn. Lá Bàng thường khá dày và khí lạnh mùa Thu đã làm cho nó chuyển sang màu đỏ ối, đỏ tiá chen lẫn vài chỗ màu vàng và có thể có những vệt màu nâu nữa. Mép lá thường co lại về phía lưng lá, làm phần bụng lá ưỡn ra trông rất đày đặn. Như một nghệ nhân tí hon, tôi dùng tay xoa bụng lá vào áo len nhiều lần và chỉ  vài phút sau, tôi có những tấm lá Bàng tuyệt đẹp vì màu sắc rung cảm và mặt lá bóng lộn như một món đồ trang sức. Hạnh phúc là đây: là đã có trong tay những kỳ công tuyệt vời của tạo hóa với sự đóng góp nhỏ nhoi nhưng tài ba của nghệ nhân tý hon này. Sân trường làng tôi có tới sáu cây Bàng già. Mỗi cây tôi đều đặt cho một cái tên. Tôi thích nhất là cây Bàng «Đường» vì trái của nó rất ngọt, rất ngon. Khổ nỗi, gốc cây này to và chỉ có cành ở mãi trên cao nên không có cách nào leo lên được. Thôi thì chờ ăn trái Bàng rụng vậy. Cũng ngon lắm đấy nhưng trong lòng có hơi ấm ức. Tôi thường dùng gạch hay đá đập vỡ từng hột Bàng để lấy cái nhân trắng ở bên trong. Phải nói, cho đến tận bây giờ tôi chưa thấy một thứ hột nào ngon như cái nhân trong hột trái Bàng.

Sân trường mùa Thu khô queo và nứt nẻ như bị hạn hán. Những gốc Bàng với đám rễ túa ra và nhô lên khá cao khỏi mặt đất, tạo thành những hốc tối làm cho cái sân trường đó vốn dĩ rất thân thương với tôi nay hình như xa lạ. Những hạnh phúc nhỏ nhoi ấy của tôi đã chấm dứt vào một ngày đầu Thu khi tôi bị chuyển ra Hà Nội để đi học.

Tại Hà Nội, gia đình tôi cư ngụ trong một căn nhà gạch hai tầng trên con phố Lò Sũ. Đây là một con phố tương đối nhỏ. Bố mẹ tôi ở tầng dưới, phía trước là cửa hàng đồ gỗ. Tất cả anh em chúng tôi ở trên lầu. Tôi theo học ở một trường tư thuộc nhà Chung cạnh nhà thờ Lớn, Hà Nội.

Đầu phố tôi ở là phòng Thông Tin ở bờ hồ Hoàn Kiếm. Khi đi học tôi thường đi một quãng bờ hồ, phía có ga xe điện rồi quẹo qua phố Hàng Trống, phố nhà Thờ là tới trường. Cũng có khi tôi đi phía ngược lại của bờ hồ, qua cửa đền Ngọc Sơn, qua nhà Bưu Điện, quẹo phải qua cửa bóp cảnh sát Hàng Trống, quẹo trái vào đường nhà thờ là tới trường. Lối đi này xa hơn một chút nhưng phong cảnh đẹp hơn.

Những năm đó mải vui đời học trò nên tôi cũng chẳng để ý đến thời gian cũng như các mùa Xuân, Hạ ,Thu , Đông gì cả. Một hôm cô em gái tôi nói là muốn tôi đưa nó ra bờ hồ để nhặt mấy cái búp đa. Búp đa là cái áo tơi che các lá non khỏi bị tổn hại trong tiến trình hình thành những cái lá. Vào đầu Thu những cái áo tơi gọi là búp đa rơi rụng đây đó quanh gốc cây. Trẻ con, nhất là các bé gái ở tuổi em tôi thích nhặt những búp đa này. Thuở ấy những đồ chơi, đồ giải trí cho con nít khá hiếm, vả lại chúng tôi làm gì có tiền mua những thứ cầu kỳ mà chơi. Con nít nhặt búp đa và dùng móng tay hoặc mũi dao nhỏ tách hai lớp vỏ thành hai cái màng dính nhau ở mép vòng quanh của búp và dùng hơi thổi cho nó căng phồng lên. Cái thú chỉ đơn giản là thế thôi nhưng thời ấy hình như cô học trò nào cũng chơi như vậy. Thời tiết mùa Thu Hà Nội cũng khá lạnh và khô mà ta hay gọi là hanh. Mùa Thu có nắng đẹp mà lạnh, người ta gọi một cách thi vị là Nắng Hanh Vàng. Nếu đã từng là dân Hà Nội thời đó, ai cũng biết có một cái thay đổi  rất dễ nhận ra vì rất  phổ biến đó là màu sắc rực rỡ của  những chiếc áo len của các cô gái Hà Thành trên đường phố Hà Nội mỗi độ Thu về. Đúng ra, thuở đó mọi người ăn mặc không diêm dúa, đa dạng như ngày nay cho nên màu áo len của các cô làm không khí thành phố dường như có hội vậy.
   
Tôi dẫn em tôi ra cái cây đa ngay gần xế cửa nhà Bưu Điện, không xa đền Ngọc Sơn là bao. Trước khi đến chỗ cây đa, chúng tôi thấy dưới gốc cây Lim (có người gọi là xà cừ. Thực ra Lim và xà cừ là hai loại cây cùng một họ. Riêng tôi không phân biệt nổi hai loại cây này) có khá nhiều sống lá cây gỗ Lim rơi rụng khắp đó đây. Những sống lá rụng xuống cũng vì khí lạnh mùa Thu. đây có  ba cây Lim cao chót vót. Gốc cây cỡ hai người ôm không hết. Những sống lá này khá dài, khoảng sáu chục phân, trông thật thích mắt. Sống lá này rất dai, không thể bể gãy được.Tự nhiên nhìn đám sống lá này, tôi thấy rất thích nên nhặt khoảng một chục cái dù chẳng biết để làm gì, trước khi đưa em tôi tới chỗ cây đa. Sau khi em tôi nhặt được một nắm búp đa, chúng tôi dẫn nhau trở về, lòng khấp khởi mừng vui. Chúng tôi tung tăng trong  những bước chân Sáo vì cả thành phố chan hòa ánh nắng Hanh Vàng.
     
Khi vào nhà, tôi bị gọi lên lầu vào một góc nhà. Một người lớn trong nhà không nói một lời rút một sống lá Lim mà tôi vừa nhặt về, vụt tôi túi bụi vào lưng và bọng chân. Tôi còn bị những cú đá bằng giày Bottine vào tibia (phần xương phía trước bọng chân). Cho đến mãi tận ngày hôm nay, tôi cũng không hiểu tại sao tôi bị đối xử như vậy. Cũng may thể chất tôi không đến nỗi tệ cho nên chân chưa gãy. Cái niềm hạnh phúc nhỏ nhoi và đơn sơ của chúng tôi trong một ngày mùa Thu đẹp tuyệt trần đã đưa đến cái không may và vô lý đến cùng cực. Bố mẹ tôi không hề đánh con cái, làm gì các cụ cho quyền người khác đánh tôi như vậy. Đây là sự lạm quyền nham nhở của một con người bệnh hoạn. Vả lại các cụ cũng đâu có biết tôi bị hành hạ như vậy! Đây cũng không có một chút gì gọi là giáo huấn vì ngay cả bị đòn còn chẳng biết tại sao! Loại đòn này tôi thường phải chịu một cách vô lý nhưng  lần này  nặng hơn. Có lẽ tại tôi chưa đủ sức tự vệ trước một con người lớn hơn tôi rất nhiều. Hắn có cái thú hành hạ người khác và tôi  chỉ là một con mồi ngon! Cái kỷ niệm tồi tệ này trong một ngày Thu tuyệt đẹp của Hà Nội chẳng hiểu nó còn đeo bám tôi tới tận bao giờ!

Ngày hôm sau, thấy tôi ngồi buồn thiu trong một góc nhà, em tôi hỏi tôi: Ông có đau không? Tôi trả lời: Tao không đau đâu nhưng tao tức lắm. Nó nói nhỏ: Sao tôi ghét thế không biết! Chúng tôi hiểu cái người nó ghét không phải là tôi.

Cơm, gạo làm tôi lớn phổng. Tôi đua đòi bạn bè tập tạ nên không bao lâu sau thân hình nở nang. Từ đó tôi chỉ thỉnh thoảng bị hục hặc một chút nhưng không bị đối xử như trước nữa.

Cuối năm 2005 tôi về thăm Hà Nội. Tôi đi tìm mấy cây Lim cũ nhưng nó đã bị chặt mất từ bao giờ, không còn chút dấu vết nào nữa. Nếu nó còn đó, chắc chắn nó cũng đâu có biết tôi đã bị đau đớn vì những sống lá của nó. Tôi đi một vòng bờ hồ để quan sát thì thấy chỉ còn hai cây Lim ở gần bót Hàng Trống. Hai cây này rất nhỏ nếu so với mấy cây Lim ngày xưa mọc xế cửa nhà Bưu Điện Hà Nội. Ôi vật đổi, sao dời và cuộc đời tôi cũng đã thay đổi rất nhiều.
    
Mùa Thu ở miền Bắc và miền Trung của đất nước tôi có những đổi thay về thời tiết và cây cỏ khá rõ rệt. Ngay cả những thanh âm thường thấy ở mùa Hè như tiếng ve hay ngay cả tiếng chim hót cũng đều tắt lịm khi mùa Thu đến. Nói đến mùa Thu trên phần đất Bắc và Trung mà không nhắc đến cái nỗi buồn man mác, vô cớ của con người mà ta thường cảm thấy khi Thu về là thiếu sót vô cùng. Xuân Diệu ghi lại cái cảm xúc lâng lâng buồn không nguyên cớ trong một chiều Thu bằng một bài thơ trong đó có hai câu:

Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn…

Bài thơ Thu Điếu hay còn gọi là bài Mùa Thu ngồi câu cá của cụ Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tuyệt trần, có một không hai vì cụ gói ghém tất cả: khung cảnh,màu sắc, cảm xúc,tâm trạng và cả thanh âm  của mùa Thu:

Ao Thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ Trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Năm 1954 gia đình tôi di cư vào Nam sau Hiệp Định Genève 20/7/1954. Bố tôi làm công chức và khi vào Saigon được bổ về làm trên phi trường Tân Sơn Nhất. Sở mới của bố tôi nằm trong vòng rào phi trường Tân Sơn Nhất, chuyên lo xây dựng tất cả các phi trường trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Hồi đó người Pháp rút lui khỏi Việt Nam nên có nhiều chỗ làm trống và nhiều căn nhà cấp cho công chức Pháp được trả lại. Bố tôi được cấp hay nói cho đúng tự cấp cho mình một căn. Nhà và vườn rất rộng, khá khang trang, nhất là có rất nhiều cây hoa cũng như cây lớn. Căn nhà chúng tôi ở, nằm giữa một vùng rộng lớn nhiều cây cỏ nhưng có rất ít nhà ở cho nên tôi có nhiều cơ hội để thấy mùa Thu đã đến với cây cỏ và làm thời tiết đổi thay như thế nào ở Saigon.


Ai đã từng ở miền Nam nước Việt chắc cũng biết khí hậu ở đây chỉ có hai mùa: Mùa nắng và mùa mưa. Mùa mưa từ tháng năm tới tháng mười và mùa nắng từ tháng mười một đến tháng tư. Vì thế khi trái đất quay quanh mặt trời, thì mùa Thu vẫn có ở mọi nơi nhưng ở miền Nam phải có cảm xúc nhạy bén và một chút quan tâm về thời gian ta mới thấy được một chút khang khác trong không gian khi mùa Thu về. Mùa Thu cây cối vẫn thấy xanh tươi, chẳng thấy rõ được cái tĩnh lặng, cái khô héo, cái sơ xác điêu tàn của vạn vật nhất là của cây cối... Vẫn biết lá không tồn tại mãi trên cây nhưng sự đổi thay diễn ra chậm và âm thầm, không đồng loạt, nhất là màu lá gần như không thay đổi cho nên chẳng ai để ý là miền Nam cũng có mùa Thu. Cũng không nhất thiết lá cây chỉ rụng hàng loạt trong mùa Thu. Khi mùa Xuân đến, cây me trổ lá rất nhiều. Lá me nhỏ và có màu xanh nhàn nhạt, trông tựa như những hạt cốm vòng. Cây me có có những tán lá. mỗi tán lá có những tàu lá. Tàu lá me nhỏ như cọng tăm, dài khoảng mười phân Tây. Lá me mọc đối diện nhau trên những cọng của tàu lá tạo nên hình dạng hơi cong cong rất đẹp mắt có thể ví như hình dạng lông mày người phụ nữ. Vào mùa Xuân, vạn vật trổi dậy sau những tê tái của mùa Đông, thì những lá me non như quá sung sức, quá vội vàng, trổ ra rất nhiều. Chúng chen vai thích cánh nhau, tranh sống. Điều này làm cho rất nhiều lá me bị rụng non. Đôi khi có rất nhiều búp lá non cũng bị rụng. Phải nói là lá me non vào đầu Xuân rụng rất nhiều. Khúc đường Nguyễn-Bỉnh-Khiêm, từ cổng chính của Thảo Cầm Viên Saigon chạy dài qua cửa trường Nữ Trung Học Trưng Vương cho đến tận khúc quanh với bờ tường sở Ba Son, cây me được trồng rất nhiều. Mùa Xuân nào cũng vậy lá me non xanh như những hạt cốm rơi đầy khúc đường này, cho dù chỉ cần một cơn gió nhẹ. Lá me non rơi nhiều đến độ thoạt nhìn ai cũng ngỡ người ta phơi cốm trên hè phố. Lá me rụng nhiều làm những cô nữ sinh của trường Trưng Vương đôi khi cũng phải khó chịu.

Gió ơi, gió hãy ngừng đi
Lá me rơi rụng khác gì…cốm bay
Gió đưa me lá loay hoay
Chui vào kẽ tóc, dính đầy áo bay
Vụng về, tay ngọc xua ngay
Cặp nâng quá trán, mày dài nhó, nhăn
Gió ơi, gió chớ hung hăng
“Ai” mà giận dữ gió hằng vui sao?...

                                                   (BTP)

Không rõ hàng cây me này do ai đã quyết định cho trồng nhưng rõ ràng rặng me này đã tạo được một khung cảnh nên thơ, tươi mát rất đúng chỗ. Lá me non rụng nhiều nhưng chẳng hẳn trời đã sang Thu !

Mùa Thu Saigon lá me cũng đổi màu và cũng rụng. Những cây có dạng lá giống như lá me như cây Điệp, cây Phượng Vỹ…lá cũng đổi màu và cũng rụng khi Thu về. Có lẽ lá những cây này nhỏ, số lượng lá rụng không nhiều nên khó gây sự chú ý của mọi người .                    

Ai cũng biết theo Dương Lịch thì mùa Thu bắt đầu khoảng 21 tháng 9 và chấm dứt vào khoảng 21 tháng 12 mỗi năm. Như vậy mùa Thu vừa nằm trong mùa mưa và vừa nằm trong mùa nắng. Không khí mùa hè ở Saigon thì vừa nóng lại vừa ẩm. Cái oi bức của Saigon trong những ngày giữa mùa Thu  đã giảm đi  và ban đêm trở nên mát mẻ hơn nhiều. Người ta chỉ nghĩ là trời hôm nay mát hơn mấy hôm trước nhưng chẳng nghĩ rằng Thu đã đến rồi. Mùa Thu của Saigon chỉ có chút thay đổi vì nhiệt độ hàng ngày hạ xuống được vài độ. Chúng ta không thể mong chờ ngọn gió heo may luồn lách và đưa cái không khí se se lạnh vào cơ thể mình  qua làn áo mỏng. Nắng thì ở đây lúc nào cũng sẵn có nhưng chờ cho có được cái khô ráo, cái se se lạnh trong cái nắng cũng còn khá rực rỡ là khó lắm! Cũng khó có thể nhận thấy nắng hôm nay có là nắng hanh vàng hay không. Nếu có một chút quan tâm, ta sẽ thấy nắng hôm nay có dịu hơn, nhưng thiếu đi cái khô khan, cái điêu tàn và cái se se lạnh thường có của mùa Thu. Nếu mong chờ một mùa Thu có nắng hanh vàng và có gió heo may ở Saigon thì chúng ta đang mong chờ một điều không thể có, ngoại trừ những đổi thay khí hậu như hiện nay có thể sẽ cho phép chúng ta trồng được cây cọ trên đường phố Montreal và biết đâu đấy sẽ chẳng có tuyết ở Cà Mau. Nếu chuyện tưởng tượng trên thành hiện thực thì lúc đó chúng ta ở đâu nhỉ? Rõ là khéo lo!!! Tóm lại trong một cái nhìn bao dung thì Saigon của tôi có mùa Thu. Trong cái nhìn khắt khe Saigon chưa bao giờ có mùa Thu cả. Gió heo may và nắng hanh vàng là những thứ quá tuyệt diệu cho một mùa Thu đầy lãng mạn, nên thơ nhưng tôi không hiểu có bắt buộc phải có nó thì mùa Thu mới là mùa Thu. Viết đến đây tôi thấy tôi và ông Ba Phải có vẻ đồng quan điểm với nhau lắm lắm!

Mùa Thu Saigon có những ngày trời mưa tầm tã. Ngồi trong nhà nhìn ra mưa, ta bỗng có cái cảm giác quạnh hiu và thiếu vắng một một cái gì, một bóng hình nào đó. Cái u buồn, cái hiu quạnh do mùa Thu mang đến cho tâm hồn mẫn cảm của một con người đa sầu, đa cảm có thể làm ta lây lan cái cô đơn, hiu quạnh một cách dễ dàng. Hãy nghe Đặng-Thế-Phong đưa ta vào thế giới của âm thanh và khung cảnh Thu trong “Giọt mưa Thu’’:                                  
« Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi.
Trời lắng u buồn mây hắt hưu ngừng trôi.
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa Thu ai khóc ai than rằng...»

Những ngày Thu Saigon có nắng thì phải nói không có nắng Hanh Vàng mà cũng chẳng có gió heo may như ở Hà Nội. Tuy nhiên nắng Thu của Saigon cũng có cái đẹp của nó. Nó có thể làm hồn ta lãng đãng, chơi vơi, chập chờn và làm ta cảm thấy có một nỗi buồn vô cớ xâm chiếm tâm hồn mình, làm ta hầu như quên cả thực tại nhộn nhịp của Saigon.

Những đêm Thu Saigon mà trời không mưa thì bầu trời trong vắt. Bầu trời hầu như rất thấp và có rất nhiều sao, không thể đếm xuể. Bầu trời Thu Saigon khác rất nhiều nếu so sánh với Montréal. Mùa Thu Montréal về đêm nhìn  lên trời chỉ thấy hun hút như cao lắm, xa thăm thẳm. Cái cõi mênh mông, hun hút đó rồi ra chúng ta cũng sẽ phải đến thôi. Đặc biệt nhìn bầu trời Thu Montreal tôi chỉ thấy lác đác vài ngôi sao! Không lẽ nền trời tại Montreal xa hơn nền trời Saigon thân thương của tôi hay sao?

Ai bảo Saigon không có mùa Thu?

Từ ngày sang sống ở Montréal, tôi có một ý niệm rất rõ về bốn mùa, nhất là mùa Thu và luôn luôn thấy thời gian trôi qua rất nhanh.

Vào cuối tháng 9, tức là đầu mùa Thu, lá của một vài loại cây đã bắt đầu đổi màu. Những cây có lá đổi màu sớm thường là đổi sang màu vàng. Nhưng hình như mỗi cây cho ta một màu vàng khác nhau dù rằng cùng một giống. Tôi thích nhất loại lá vàng màu tươi và trông như có vẻ mỏng hơn và hơi trong trong. Chậm hơn cỡ cả tháng trời lá mới đổi màu là cây Phong. Cây Phong cho ta rất nhiều màu khác nhau. Lá phong có thể có màu đỏ tươi, có màu đỏ tía, có màu vàng, thôi thì đủ màu. Nhiều khi trên cùng một cây lại có những đám lá còn xanh chen lẫn những đám lá đỏ, lá vàng. Mùa Thu ở Montréal đúng là thiên đường của màu sắc, do lá cây đổi màu. Có những nơi quanh Montréal, nổi tiếng vì những khu rừng có nhiều lá đổi màu rất đẹp như Mont Tremblant, St Sauveur v.v. Vào mùa lá đổi màu du khách đến chơi mấy nơi này rất đông. Dân Montréal thường cũng góp phần rất đông trong đám du khách đi coi …lá.

  
Mùa Thu còn làm một vài loại cây không phải chỉ có lá mà ngay cả những cành cây cũng thay đổi màu nữa. Một vài giống cây khi mùa Thu tới, những cành cây trở nên có màu xậm, đen mun, trông giống như được bọc bằng nhung đen, tuyệt đẹp.
  
Cây cỏ khi Thu về đều trở nên héo tàn, xơ xác thậm chí khô quắt. Mặt đất cũng xác xơ khô queo. Mùa Thu cũng có hoa nhưng chỉ là những bông hoa lẻ loi giữa cảnh tàn tạ nên trông rất lạc lõng, tội nghiệp và chẳng ai có lòng thưởng thức nó. Mùa Thu cũng có nắng nhưng trời càng lạnh khi nắng đẹp. Đây chính là nắng hanh vàng nhưng lạnh hơn mùa Thu Hà Nội của tôi nhiều. Mùa Thu Montréal dĩ nhiên cũng có gió nhưng không biết tôi có nên gọi là gió heo may hay không vì thường gió khá mạnh và quá lạnh, không phải cái gió hây hây của Hà Nội. Cụ Nguyễn Du có câu văn bất hủ:

... Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…
     
Cảnh vật trong tâm trạng của một người buồn có thể cũng đẹp lắm đấy nhưng chắc chắn không thể nào là cảnh vui được.
     
Cảnh mùa Thu không thể là cảnh vui. Mùa Thu là mùa thiên nhiên đi vào tĩnh lặng. Làm như bao nhiêu cái thanh âm ồn ào của những ngày hè cũng bị cái khí Thu đưa vào tĩnh lặng mất rồi. Thu về, vạn vật đổi thay rất nhanh. Bao nhiêu cái tươi tốt, rực rỡ của mùa Hè tan biến đi nhường chỗ cho những tan hoang, xơ xác, điêu tàn. Cái giá lạnh đầu Thu thường làm cho ta cảm thấy  hiu quạnh, cô đơn, làm như quanh ta chẳng còn có ai. Cái lẻ loi ấy khiến ta thèm nghe một tiếng nói, thèm nói một lời, thèm gập gỡ một người bạn, một người quen. Phải chăng mùa Thu đã mang đến cho mọi người một tâm tình cởi mở hơn, rộng lượng hơn và do đó cũng là lúc thuận lợi nhất để con người biết tha thứ và thương yêu nhau. Cảnh buồn đôi khi lại mang đến cho chúng ta cái ấm áp của tình người. Có phải vì vậy mà nhà văn Trà Lũ gọi Canada là xứ lạnh tình nồng đó chăng?
                                      
Montréal một ngày đầu Thu 2013


BTP

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Ngày chớm Thu ở Halifax


Tôi lấy chuyến bay American Airlines từ Paris về New York sáng 11/9/2001. Tôi vẫn bị khó ngủ trên những chuyến bay xa, nên chập chờn không biết mình có đang ngủ hay không, dù hôm trước ở Paris đã có nhiều ly rượu vang Pháp dễ làm say ngủ. Buổi trưa ăn bữa cơm dài bốn tiếng để nói chuyện với hai người bạn. Hiệu ăn Ngọc Xuyến, nơi chúng tôi ngồi với các món nổi tiếng như phở và bánh giò, chiều khách nhưng cũng cần đóng cửa lúc bốn giờ. Chúng tôi phải chạy sang tiếp tục câu chuyện cho tới sáu giờ ở một quán cafe đầu phố. Rồi chạy ra xem vườn Luxembourg vào đầu thu để chụp vội vài bức hình kỷ niệm cho chuyến đi Paris ngắn này. Sau đó vợ chồng một người bạn khác rủ đi ăn bữa cơm tối chia tay với vài ly vang đỏ ở Chez Papa, một hiệu nổi tiếng ở quận 14.

Giữa cơn mơ màng nửa tỉnh nửa mê, tôi chợt thức giấc vì nghe giọng nói căng thẳng của người phi hành trưởng qua loa phóng thanh: “Chúng tôi xin báo một tin khẩn cấp và không vui vừa xảy ra ở Mỹ. Có hai chuyến máy bay từ Boston bị không tặc cướp và cho đâm thẳng vào hai tòa nhà của World Trade Center ở New York City, và một chuyến khác cũng bị không tặc cướp sau khi cất cánh ở phi trường Dulles thuộc khu Washington D.C. và cho nổ lúc đâm vào Pentagon. Ngoài ra nguồn tin khác chưa được xác nhận rõ là một chiếc máy bay thứ tư khác cũng bị cướp sau khi cất cánh ở Newark để đi San Francisco và bị nổ ở một vùng ngoại ô của thành phố Pittsburgh.”

Tôi hoảng hốt ngồi chồm dậy, không tin ở tai mình, nhìn sang người hành khách bên cạnh và hỏi: “Tôi vừa nghe loáng thoáng về chuyện động trời không tặc cho nổ máy bay ở New York City và Washington D.C., không biết tai tôi có nghe đúng hay không?” Ông hành khách đó gật đầu và làm tôi tỉnh ngủ hẳn: “Ông đã nghe rất chính xác!” Ít phút sau, chúng tôi đều lắng nghe các bản tin cập nhật hóa tình hình an ninh ở Mỹ từ người phi công trưởng. Ông này cho biết thêm máy bay của chúng tôi không được phép đáp xuống New York vì các phi trường ở Mỹ đều trong tình trạng hỗn loạn và phần lớn phải đóng cửa vì lý do an ninh. Máy bay chúng tôi sẽ phải sang Canada và đáp xuống Montreal hay Toronto trong một tiếng rưỡi nữa. Mọi người trong máy bay nhìn nhau im lặng, ngay cả dò xét xem có gì lạ ở các người hành khách khác để kịp báo động. Ai cũng cố giữ bình tĩnh, nhưng nét lo âu lộ rõ trong ánh mắt. Ai cũng cố dùng điện thoại Aircom gọi xuống đất hỏi thêm tin tức để báo cho nhau và bàn luận trong máy bay, nhưng phải chờ khá lâu vì hệ thống điện thoại cũng bị đình trệ.

Chỉ mười phút sau, tiếng người phi công trưởng lại vang lên trên loa: “Vì nhu cầu khẩn cấp, chúng tôi được lệnh phải đáp xuống trong 15 phút nữa ở phi trường gần nhất là Halifax, một hòn đảo thuộc vùng Nova Scotia của Canada. Mời quý vị hành khách buộc chặt dây lưng an toàn để sửa soạn đáp.” Chỉ một câu nói giản dị, không có đe dọa cấp thời đến chiếc máy bay hay sự an toàn của hành khách, nhưng cảm tưởng bất an, bồng bềnh không chắc chắn vẫn tràn ngập đám hành khách, làm cho mười lăm phút chờ đợi thật dài và hồi hộp. Những biện pháp an toàn được công bố nếu lúc đáp có gì trục trặc, vì có hơn 50 máy bay lớn khác cũng đáp xuống ở đây. Vì đây là phi trừơng nhỏ chỉ có ít cầu thang cho hành khách ra khỏi phi cơ nên sẽ phải đợi lâu trên máy bay, kể cả thì giờ đợi làm thủ tục an ninh nhập nội cho gần 8000 hành khách bỗng dưng bị “kẹt” ở đây.



Lúc đó là 1 giờ 30 trưa, giờ này đáng nhẽ chúng tôi đã được đáp xuống phi trường Kennedy ở New York. Nhưng qua các mẩu tin lượm lặt qua điện thoại, khu Manhattan chung quanh World Trade Center đang trải qua cảnh địa ngục với hai tòa nhà lớn đã bị sụp xuống và xe cộ chung quanh bốc cháy. Tin mới cho biết các phi trường của Mỹ và các quốc gia Tây Âu đều đóng cửa. Riêng Canada cũng đóng cửa biên giới với Mỹ để tránh bị nhóm khủng bố xâm nhập. Như vậy là hết hy vọng cho chúng tôi tìm phương tiện về một tỉnh lớn hơn như Montréal rồi từ đó lái xe về các tỉnh miền đông nước Mỹ. Mọi người lại cố dùng điện thoại di động để gọi về gia đình hay nhiệm sở báo tin sắp đáp xuống Halifax và hỏi thêm tin bên Mỹ.

Rồi những phút chờ đợi đó cũng qua đi, máy bay đáp xuống phi đạo và chúng tôi nhìn thấy hàng dài những máy bay đã xuống trước, nối đuôi nhau như trong một bãi parking đang kẹt xe. Lúc bánh phi cơ vừa đụng mặt đất, ai nấy thở phào nhẹ nhõm và vỗ tay khen ngợi sự bình tĩnh và chăm sóc ân cần của phi hành đoàn chuyến AA 45, nhất là nhóm tiếp viên vẫn luôn nở nụ cười với các ly nước tiếp liền tay. Rượu và cafe hay trà đã không được rót từ lúc có tin lộn xộn để tránh làm hành khách thêm cảm xúc hay bị khích động. Trong tình trạng đó, chúng tôi đã phải ngồi liền tám tiếng trong máy bay. Cuối cùng, khi đêm đã xuống, máy bay “taxi” tiến dần vào chỗ đậu, nhìn ngọn hải đăng Halifax qua cửa sổ máy bay sao thấy buồn và cô đơn kinh khủng, lại nghe thêm các tin tức qua điện thoại từ bạn bè hay thân nhân là các trường học và văn phòng đều đóng cửa ở Washington và New York. Tôi cũng sốt ruột vì phải về dạy lớp ở American University vào ngày sau. Rồi lại có cả tin TT Bush đã cho máy bay thả bom ở Afghanistan (về sau mới biết đây là tin thất thiệt!) làm cho không khí thêm nặng nề.

Bất chợt tiếng người phi công trưởng báo tin hành khách sắp được xuống phi cơ, ai cũng vui mừng vì đã nghĩ đến trường hợp phải ngủ qua đêm trên máy bay. Chúng tôi được báo thêm đêm nay sẽ trú trong một khu triển lãm đóng cửa hay trường học bỏ trống, và các phương tiện sẽ do hội Hồng Thập Tự địa phương xếp đặt. Hành khách rộn rịp tay xách nách mang các hành lý cá nhân, còn vali nặng thì bỏ lại trong khoang hành lý, với hy vọng được sớm bay về cái “thiên đường nhỏ” của mình ngày mai!

Các âu lo trằn trọc của cuộc sống vật chất hàng ngày trở thành vô nghĩa. Niềm bất ổn trong cái sắc không của cuộc đời chợt chớm trong ý nghĩ. Chúng tôi nhìn nhau cố tạo một nụ cười lịch sự, ân cần với nhau hơn lúc mới lên máy bay ai nấy loay hoay tranh dành kiếm chỗ để hành lý trong các ngăn trên đầu. Gửi lời hẹn gặp lại nhau ngày mai một cách lạc quan dù chưa biết sẽ đi đâu và tình hình sẽ biến chuyển ra sao bên Mỹ.

Tôi thò đầu ra khỏi máy bay, gặp ngay cơn gió mới chớm thu của Canada nhưng đã lạnh rùng mình. Welcome to Halifax với những ngọn đèn tù mù! Welcome to Canada! Xứ láng giềng thanh bình của Hoa Kỳ, được cơ quan phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) xếp hạng trong nhiều năm là xứ đáng sống nhất với sự phát triển kinh tế xã hội thăng bằng và ít tội phạm hay bất công xã hội, vẫn được nhà văn Trà Lũ ở Toronto, cũng là thầy giáo Anh văn ở CVA của tôi, ca tụng hết lời là “thiên đàng hạ giới.”

Cách đây nhiều năm tôi đã tốt nghiệp tại trường Laval ở Quebec, và nhờ đó tôi đã biết rất rõ lòng tử tế và tính hiếu khách của những người bạn xứ này. Thuở đó, lúc tốt nghiệp và sang Mỹ học tiếp, tôi vẫn tiếc chưa có dịp đi chơi thăm Halifax. Ai ngờ đây là cơ hội tôi thăm hòn đảo du lịch này, trong một tình huống khá éo le!


Khi đoàn xe bus chở chúng tôi đến chỗ tạm trú ở Exhibition Park thì đã gặp ngay quang cảnh rộn rịp với nhiều người đã đến trước. Nhóm chúng tôi được xếp chỗ ngủ dưới đất trong khu triển lãm rộng nhưng khá lạnh vì các cửa hở có gió mạnh thổi vào. Cái “bao ngủ” và tấm chăn lớn cũng chưa đủ ấm vì tôi không đem theo áo len. Tôi trằn trọc không ngủ được, bỏ ra phòng đợi có máy sưởi và các ly trà nóng ấm áp hơn, và theo dõi tin tức của đài CNN để xem lại các hình ảnh khủng khiếp ở khu World Trade Center mà tin tức đã nghe nói lúc ban ngày. Cũng không quên được cô em đã ân cần mua cho tấm thẻ điện thoại trả trước để có dủ phương tiện liên lạc trong mấy hôm với bạn bè người thân.

Bên những xúc động vì các cảnh tang thương của New York và Washington D.C., tôi cũng tìm lại được vài hình ảnh quen thuộc đã thấy (déjà vu) của tháng 4  năm 1975 lúc tôi cũng đã xin làm tình nguyện (volunteer) cho Hội Hồng Thập Tự để giúp những người di tản ở Camp Pendleton (California) bên Mỹ. Bây giờ, tôi ở trong hoàn cảnh “tị nạn” do cuộc khủng bố ở Mỹ và cũng được những tình nguyện viên Hồng Thập Tự ở Halifax giúp đỡ lại. Sự ân cần tử tế của những người địa phương này làm tôi cảm động. Nhưng tôi còn xúc động hơn khi cảm nhận mãnh liệt mối “nợ đồng lần” trong thiên hạ, triết lý đã được học thuở nhỏ là khi mình giúp một ai thì có ngày sẽ được kẻ khác đáp lại.

Đêm dài Halifax lạnh lẽo hầu như thức trắng rồi cũng qua. Buổi sáng thức dậy với bữa ăn nóng đầy đủ và sự ân cần của nhóm người tình nguyện. Nhưng hình ảnh khó quên nhất là những người dân địa phương đang xếp hàng chờ tìm những người trong trại muốn đi ra ngoài để mua bán hay chở về nhà họ tắm rửa vì không có nhà tắm ở khu tạm trú này. Tôi cũng ghi tên đi về nhà của một gia đình địa phương với cặp vợ chồng và ba người con hiếu khách. Tắm shower xong tôi tỉnh táo hẳn để tính chuyện tìm phương tiện rời Halifax về lại Mỹ. Buổi chiều tôi lại được gặp một anh bạn trẻ khác chở xe đi dùng Internet liên lạc với người quen và ăn tối. Sau đó tôi kiếu từ về sớm để đợi gặp Philip Campbell, người  đại diện hãng Swiss Air, xin gia nhập đoàn hành khách 100 người sẽ ra đi trong đêm bằng phương tiện thuê riêng. Chúng tôi thức dậy lúc bốn giờ sáng thứ năm 13/9 để sửa soạn ra xe bus đi hai tiếng đến Yarmouth là chỗ đáp một tầu thủy du lịch chở đi Portland thuộc tiểu bang Maine.



Sau 11 tiếng lênh đênh trên biển - càng tô đậm thêm cái cảm giác lênh đênh bất định do các biến động lớn mang lại - tàu cập bến Portland. Sau khi lên bờ, chúng tôi lên ba chiếc xe bus chờ sẵn trực chỉ Boston. Đến Boston lúc 11 giờ đêm, tất cả chia tay. Tôi xiết chặt tay Philip để cám ơn. Sau đó ngủ qua đêm trong một khách sạn ở Boston để sáng hôm sau đáp xe lửa về Washington D.C. Tôi như qua một giấc mơ dài khi về đến “thành phố nhà” lúc hai giờ trưa thứ sáu 14/9, mừng vui  nhìn thấy lại "giang sơn" Potomac êm đềm, chấm dứt chuyến đi kéo dài tổng cộng hơn 30 tiếng từ hòn đảo Halifax của Canada đến thủ đô nước Mỹ bằng nhiều phương tiện khác nhau mà trong lúc bình thường chắc không ai có thể nghĩ tới. Nhớ lại nỗi vất vả lên bến xuống thuyền của hai ngày qua, tôi thấy như mình đang sống trong tình trạng chiến tranh. Mà thực tế hình như quả đúng như thế thật.

Về nhà vẫn nhớ mãi hai ngày chớm thu tạm trú ở Halifax, cũng gợi nhớ những mùa thu trước của Québec.  Nhưng đêm đầu lạnh lẽo đó Halifax khác xa cảnh rực rỡ của những hàng đèn đại lộ Champs-Elysées hay khách sạn 4 sao của Paris hoa lệ mà tôi vừa rời hôm trước. Mới đêm hôm trước, tôi còn ở trong một thế giới khác, thế giới sáng trưng của an bình chắc chắn và những giấc mộng đẹp, mà đêm hôm sau nằm trên nền đất đã trằn trọc không ngủ được trong cái lạnh của trại tạm trú, với hình ảnh tang thương đổ vỡ của một New York vốn đầy những building chọc trời cứ luẩn quẩn trong đầu. Hình như lần đầu tiên tôi chứng nghiệm một cách thiết thân tính chất vô thường của mọi sự ở đời.

Nhưng Halifax đối với tôi mới là cuộc đời thật sự, vì tôi đã gặp ở hòn đảo tối tù mù đó sự ấm áp của tình người trong cơn khủng khiếp đầy tang tóc của hoạn nạn. Xin cám ơn vùng đảo nhỏ, cám ơn Canada với những người dân hiếu khách đầy ân tình đã cho tôi chỗ an trú tinh thần, làm chỗ tựa vững chãi cho chút ý nghĩ giác ngộ mới chớm nở đêm đó về ý nghĩa thật của cuộc sống. Thỉnh thoảng trong nỗi nhớ mùa thu Canada, hai ngày ở Halifax vẫn cho tôi một kỷ niệm sâu đậm khó quên.


Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Mùa thu trên Đất Lạnh


         Trong Họp Mặt 2013, các cây “cổ thụ”, “đại thụ” cùng những cựu sinh viên Việt Nam trẻ của Đại Học Laval đã gặp gỡ, đã cùng nhau tìm lại được những thân yêu của ngày tháng cũ... Qua một thời gian dài sau khi ra trường đã thăng tiến trong sự nghiệp, lập gia đình, nuôi nấng con cái... khi đã sắp, hay đến tuổi về hưu, chúng ta thường có khuynh hướng tìm về những kỷ niệm êm đềm cũ... đọc trong Đất Lạnh Tình Nồng, chúng ta sẽ gặp những gì yêu dấu nhất giữ cả một đời đã được chia sẻ thật gần gũi, thật thân thiết như trong “tình đầu” của BT Phụng, “dan díu” của Điệp, “cho tôi lại ngày nào” của NDVinh... và còn nhiều nữa xin quí anh chị vào blog Đất Lạnh để biết thêm...

        Chưa bao giờ blog của cựu sinh viên Laval lại mang đầy hào khí, phong phú về nội dung lẫn hình thức của một thời tuổi trẻ sinh viên như năm nay...Những đề nghị của các anh Đỗ Đức Viên, Nguyễn Duy Vinh, Phạm Đỗ Chí và nhiều anh chị khác đã tạo thành một “áp lực” đáng yêu, đáng nói và đáng kể để anh chủ nhiệm Lưu Quang Trung phải tự hỏi, có nên làm “Đất Lạnh 4 mùa” không?...

         Câu trả lời đã có khi “đàn anh” LQ Trung cho biết đã tìm được trong Phong Hóa số 67 về mùa Thu 1933... Công trình của một “con kiến đàn anh” rất lớn... với những ngày giờ cặm cụi tìm đọc, rồi ghép lại và làm rõ ràng những trang báo, nói về những trò chơi nhân gian: của trẻ con và trò chơi người lớn (???) vào năm 1933, có cả chuyện tình nên thơ đáng nhớ...

         Qua Phong Hóa, chúng ta thấy đã may mắn được thừa hưởng một nền văn học do nhóm người trẻ của năm 1933, họ đã hy sinh cuộc đời cho lý tưởng, cho dân tộc... đây là giai đoạn giao thời giữa tiếng Nôm và tiếng Việt, nên chúng ta sẽ đọc thấy một số chữ viết trong tình trạng phôi thai chưa hoàn chỉnh, so với tiếng Việt 80 năm sau...(như tiếng Việt chúng ta đang dùng)... Sự cố gắng truyền tải văn học hay kiến thức qua văn chương, báo chí đã giúp cho chúng ta tiến nhanh và tiến mạnh trong việc giữ gìn tiếng Việt, và nước Việt... vì “tiếng Việt còn, nước Việt còn”... không có xưa làm sao có nay...!

         Ít hay nhiều, tất cả chúng ta đều có thể chung sức, tiếp nối việc làm của tiền nhân với những hiểu biết và kiến thức sẵn có của chính mình vì sự trường tồn của dân tộc... Hy vọng tất cả các quí anh chị em, có thể tiếp tục góp một bàn tay để giữ gìn và cổ động văn hóa Việt Nam bằng cách đọc bài, viết bài, cho ý kiến xây dựng trên Blog Đất-Lạnh – mùa Thu... và đừng quên cùng gửi link giới thiệu Blog với bạn bè và người thân...


Vĩnh-Huy

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Ngày tựu trường

Mùa tựu trường nhớ thầy cũ:  
  

(một số bài do Nguyễn Duy Vinh sưu tầm, riêng tặng Đỗ Đức Viên)
Trong lúc chưa tìm được nguồn cảm hứng để viết một bài về mùa thu, tôi có thu nhặt được một số bài do các nhà văn nổi tiếng viết hoặc dịch và tôi xin lần lượt trình bày dưới đây với mục đích duy nhất là cố đem đến cho người đọc một vài giây phút thoải mái.

Bài đầu tiên là bài thuộc loại “classique” nổi tiếng của Thanh Tịnh, bài “Tôi đi học”

Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.

Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.

Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.

Bài tiếp là bài “La rentrée des classes” của văn hào Anatole France, xin xem bài dịch phía dưới.

Je vais vous dire ce que me rappellent, tous les ans, le ciel agité de l'automne et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent, je vais vous dire ce que je vois quand je traverse le Luxembourg  dans les premiers jours d'octobre, alors qu'il est un peu triste et plus beau que jamais, car c'est le temps où les feuilles tombent une à une sur les blanches épaules des statues.
Ce que je vois dans ce jardin, c'est un petit bonhomme qui, les mains dans ses poches et sa gibecière au dos, s'en va au collège en sautillant comme un oiseau. Ma pensée seule le voit, car ce petit bonhomme est une ombre : c'est l'ombre du moi que j'étais il y a vingt-cinq ans.
...Maintenant qu'il n'est plus, je l'aime bien. Il était bien étourdi, mais il n'était pas méchant et je dois lui rendre cette justice qu'il ne m'a pas laissé un seul mauvais souvenir. Il est bien naturel que je le regrette ... et que mon esprit s'amuse à en ranimer son souvenir.
Il y a vingt-cinq ans, à pareille époque, il traversait, avant huit heures, ce beau jardin pour aller en classe. Il avait le cœur un peu serré : c'était la rentrée.
Pourtant, il trottait, ses livres sur son dos et sa toupie dans sa poche. L'idée de revoir ses camarades lui remettait de la joie au cœur. Il avait tant de choses à dire et à entendre ! ... Et puis c'est si bon de retrouver des camarades.
Combien il lui tardait de revoir Fontanet qui, pas plus gros qu'un rat et plus ingénieux qu' Ulysse, prenait partout la première place avec une grâce naturelle ! ...
C'est ainsi qu'il traversait le Luxembourg, dans l'air frais du matin.
Tout ce qu'il voyait alors, je le vois aujourd'hui. C'est le même ciel et la même terre ! Lui  seul n'est plus.
... C'est pourquoi, à mesure que je vieillis, je m'intéresse de plus en plus à la rentrée des classes ...

Bài dịch tôi không biết tên tác giả, tìm được trên mạng :

Tôi sẽ nói với bạn điều mà hằng năm làm cho tôi nhớ lại, đó là bầu trời mùa thu vần vũ, những bữa ăn tối dưới ánh sáng ngọn đèn và những chiếc lá bắt đầu vàng trên hàng cây lay động ; tôi sẽ nói với bạn điều mà tôi trông thấy khi tôi băng ngang khu vười Lục-xăm-bảo ( Luxembourg, Paris VI ) trong những ngày đầu tháng mười ; lúc bấy giờ khu vườn hơi buồn và đẹp hơn bao giờ hết ; vì đó là lúc lá vàng rơi từng chiếc trên bờ vai trắng của những pho tượng . Điều mà tôi thấy lúc bấy giờ trong khu vườn ấy, đó là một cậu bé, hai tay thọc vào túi, và cặp da trên lưng, đi tới trường vừa nhảy nhót tung tăng như một con chim sẻ . Chỉ có trí tưởng của tôi trông thấy cậu bé ấy mà thôi ; vì cậu bé ấy, chính là một cái bóng ; đó là cái bóng của chính tôi cách đây hai mươi lăm năm .

...Cách nay hai mươi lăm năm, cùng lúc này, cậu bé ấy băng ngang khu vườn xinh đẹp kia trước tám giờ để tới trường . Cậu ta cảm thấy lòng se thắt vì hôm ấy là ngày khai trường .

Tuy nhiên cậu ta nhảy tung tăng, sách vở mang trên lưng, và con vụ (con quay) trong túi . Ý tưởng gặp lại bạn bè làm cho cậu ta cảm thấy vui ngay trong lòng . Cậu bé sẽ có biết bao câu chuyện để nói và để nghe .

Thế là cậu bé băng ngang vườn Lục-xăm-bảo trong cái mát mẻ của buổi sáng . Những gì cậu bé trông thấy lúc bấy giờ, hôm nay tôi trông thấy lại .

Cũng cùng khung trời và cùng lối đi, cảnh vật còn giữ linh hồn của ngày xưa, linh hồn đó có làm cho tôi vui, làm cho tôi buồn và làm cho tôi bâng khuâng ; duy chỉ có cậu bé ấy, ngày nay không còn nữa . Vì vậy khi tôi ngày càng già đi, tôi càng quan tâm nhiều hơn tới ngày khai trường.

Và đây là một bài nữa chép từ quyển Tâm Hồn Cao Thượng do ông Hà Mai Anh dịch, bài này hầu hết các bạn ở “đội ngũ” tuổi U70 đều biết :

Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Baretti để ghi tên lên lớp ba. Đi đường, óc tôi cứ vơ vẩn đến chốn thôn quê, lấy sự đi học làm ngại. Phố nào cũng thấy nhan nhản học trò. Hai hiệu sách lớn chật ních những phụ huynh vào mua sách vở, giấy, bút cặp da. Cửa trường đông nghịt những người, cảnh binh và người gác cổng phải khó nhọc mới mở được một lối vào.

Vừa bước qua cổng trường thấy một bàn tay vỗ vào vai, tôi giật mình ngoảnh lại thì ra thầy giáo lớp hai tôi học năm ngoái, mái tóc đỏ hoe vẫn để rối, nét mặt vẫn tươi, thầy bảo tôi :

- Enricô ơi! Thầy trò ta từ nay chia tay nhau nhỉ?

Điều ấy, tôi đã nghĩ đến, nay thầy tôi lại nhắc, khiến tôi thêm chạnh lòng …

Trong một bức thư viết cho con là Enricô, có đoạn dịch thật hay của ông Hà Mai Anh mà tôi nghĩ với tình cảnh quê hương Việt Nam hiện nay, tôi cũng xin chép lại dù nó không liên quan đến ngày tựu trường :

Tại sao con yêu xứ sở của con ? Câu hỏi ấy chẳng làm nẩy nở trong óc con biết bao nhiêu là câu trả lời hay sao ? Tôi yêu xứ sở của tôi vì mẹ tôi sinh trưởng ở đấy ; vì nguồn máu trong huyết quản của tôi đều là của người ; vì trong khu đất thánh kia đã chôn vùi tất cả những người quá cố mà mẹ tôi thương, mà cha tôi trọng ; vì cái đất mà tôi sinh, thứ tiếng tôi nói, quyển sách tôi học, các em tôi, chúng bạn tôi và một dân tộc lớn chung sống với tôi, cảnh đẹp của tạo hóa bao bọc chung quanh tôi, tóm lại tất cả những sự vật mà tôi đã trông thấy, tất cả những cái gì mà tôi yêu, tất cả những cái gì mà tôi quí, nhất nhất đều thuộc về xứ sở của tôi cả.

Bây giờ còn bé, con chưa hiểu thấu được thế nào là lòng yêu nước. Rồi ra con sẽ biết. Khi du lịch ở xa về, một buổi sáng, đứng tựa bao lan tàu con thấy ở chân trời một dãy núi xanh của xứ con hiện ra, bấy giờ con sẽ thấy tràn lệ cảm ở trong lòng con dâng lên và miệng con buột ra những tiếng kêu mừng rỡ.

Con sẽ cảm thấy tình yêu nước khi con ở nước ngoài chợt nghe thấy một người trong đám thợ thuyền nói tiếng nước con, theo lòng con xui giục, tự nhiên con đến hỏi chuyện người thợ không quen ấy.

Con sẽ cảm thấy tình yêu nước, khi con nghe thấy người ngoại quốc lăng mạ xứ sở con, lòng tức giận sẽ làm cho con nóng mặt.

Con sẽ cảm thấy tình yêu nước mạnh mẽ và tôn đại hơn nữa, nếu một ngày kia, nước địch vô cớ giày xéo vào đất ta ; lúc ấy con sẽ thấy nào cha hôn con khuyên câu “dũng cảm”, nào mẹ tiễn con hẹn lúc “khải hoàn”.

Con sẽ cảm thấy tình yêu nước khi con trông thấy những đội quân vất vả trở về với những khúc ca chiến thắng.

Con sẽ cảm thấy tình yêu nước khi con trông thấy lá cờ quốc gia (…) bị bắn tả tơi đi đầu một toán người nghĩa dũng, ai nấy đều phô cao cái trán buộc băng hay cái tay bị bó, trong đám đông dân chúng hoan hỉ, người ta ném hoa mừng và hô những lời chúc tụng.

Con ơi ! Bây giờ con đã hiểu thế nào là lòng ái quốc. Đó là một điều rất to tát, rất thiêng liêng. Ví một ngày kia, ta trông thấy con về trận được an toàn, nhưng được tin con đã lẩn lút để tránh cái chết, thì cha đây, cha vẫn đón con lúc đi học về bằng tiếng cười vui vẻ, bấy giờ cha sẽ đón con bằng những tiếng khóc xót xa. Cha sẽ không thể thương con được nữa và sẽ đâm tim mà thác cho rồi!
Cha  của con

Rồi lại còn bài này thật hay của nhà văn Nguyễn Khắc Mẫn trong quyển truyện ngắn Nỗi lòng (các bạn có thể tìm đọc được cả quyển trên trang mạng Việt Nam Thư Quán) :

Mồng một tháng chín tây. Ngày khai trường. Trên đường cái học trò hớn hở cắp sách đi học. Đã hai tháng rưỡi, hôm nay mới lại thấy các cô bé, các cậu bé, họp từng bọn đi với nhau, nói cười vui vẻ. Khác ngày thường, là bên cạnh những bạn trẻ nhanh nhẹn, liến thoắng, ta thấy những học trò ngây ngô, ngơ ngác, rụt rè đi sau ông cụ già hay người lớn tuổi. Đấy là các cậu học trò mới theo cha anh đến trường xin học.

Với những bức tường mới quét vôi lại sáng sủa, với cái sân rộng sạch sẽ, cỏ cắt sát mặt đất, trường có vẻ mới hẳn.

Trong sân trường, vẻ tấp nập lại hiện ra. Các cậu bé chạy, nhẩy, đuổi nhau, gào thét. Các cậu nhớn ra vẻ đứng đắn hơn họp lại từng bọn, nói chuyện về các thú vui của mình trong những ngày nghỉ. Những người mới học một năm ở lớp nhất và thi hỏng kỳ mới rồi, lại bẽn lẽn cắp sách đi học, đứng riêng ra một góc trường. Còn học trò mới thì đứng ngây người ra xem các học trò cũ cười nói nô đùa, ước ao được vào học như họ, hoặc đi lại trước cửa các lớp, nhìn vào những dẫy bàn ghế kê có thứ tự, những địa đồ tranh ảnh treo trên tường.

Tôi xin ngừng đây và sẽ cố gắng tìm cảm hứng để viết một bài về mùa thu trước khi … tuyết rơi…
Thân ái,
NDV

PS các bạn nào có những bài về ngày tựu trường xin đóng góp thêm nha…