Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

Trở về

LTG : Năm 1971 rời phi trường Ancienne Lorette về Việt nam. Năm 2013 trở lại phi trường Jean Lesage họp mặt. Không biết đâu là chuyến TRỞ VỀ”.
Đó là một hôm vào cuối tháng 9, 1971. Phi trường Ancienne Lorette có vẻ như nhộn nhịp hẳn lên. Có đến mấy chục người đến tin đưa tôi về Việt nam. Bạn thân cũng nhiều mà không thân lắm cũng có, mỗi người một tâm sự. Có người đã nói rõ với tôi là “về đó xem yên ổn thì kéo anh em về với”. Một số khác, theo tôi nghĩ, muốn qua cái bắt tay để làm chiếc cầu nối về quê hương thân yêu mà không biết lúc nào mới trở lại được. Tôi có lý do riêng và sẵn sàng làm kẻ tiên phong. Tuy nhiên nếu biết trước những gì sẽ xảy đến trong suốt 10 năm sau đó thì không biết tôi có còn can đảm để làm kẻ tiên phong hay không ?

Về nhà chừng hơn một tuần, vào đầu tháng 10, tôi nhận nhiệm sở ở trường Cao đẳng Kỹ Thuật Phú Thọ. Làm việc ở đây, vừa là giáo chức vừa là chuyên viên nên có đủ 2 ưu tiên để được biệt phái về nhiệm sở. Theo trình tự, 6 tháng sau tức là vào tháng 4, 1972, tôi trình diện để đi thụ huấn quân sự ở quân trường Thủ đức trong vòng 10 tuần. Lúc tôi mới vào trường thì tình hình chiến sự vùng “địa đầu giới tuyến” (Bến hải-Quảng Trị) bắt đầu sôi động. Thật sự mà nói, 10 tuần đầu ở Thủ đức là thời gian “huấn nhục” cho nên tôi cũng chẳng có thì giờ để biết tình hình như thế nào. Mỗi ngày chỉ được ngủ từ 12 giờ đêm đến 5 giờ sáng, ăn trưa chỉ 2 phút và ăn tối thì tùy hứng, có khi được 5 phút. Sau ba ăn thì chỉ được “30 giây khói lửa”, có nghĩa là đốt điếu thuốc lên thì 5, 7 đứa mỗi đứa “rít” một hơi là hết 30 giây. Nếu có thì giờ đọc báo để biết rằng đó là những ngày đầu của “mùa hè đỏ lửa” thì chắc còn lo lắng hơn. Dù sao thì tôi cũng biết tình hình không được tốt nên có chút thì giờ là đi dò hỏi về tình hình giáo chức và chuyên viên biệt phái. Khoá cuối cùng của năm 1971 thì mọi chuyện như bình thường. Khoá của tôi là khoá 2/1972. Vào trường được khoảng một tháng thì khoá 1/1972 học xong 10 tuần và vì tình hình chiến sự, tất cả chuyện biệt phái đều bị đình lại ngoại trừ giáo chức hay chuyên viên từ ngoại quốc về. Như vậy là cũng còn hy vọng. Tuy nhiên khoảng cuối tháng 6, lúc tôi đã học đủ 10 tuần, thì đúng vào đỉnh cao của mùa hè đỏ la cho nên không còn ai được biệt phái nữa. Như vậy là tôi phải tiếp tục thụ huấn cho đến lúc hoàn tất khoá huấn luyện ở Thủ đức.

Cái đích trước đây là 10 tuần bây giờ trở thành 6 tháng và dĩ nhiên là không có gì chắc chắn cả. Đến cuối tháng 10, thi cử xong hết rồi vẫn không thấy ai nói đến chuyện làm lễ ra trường hay chuyện biệt phái. Cuối cùng thì cũng có lệnh ban ra là chúng tôi sẽ làm lễ ra trường, kết hợp với chuyện phát động một chiến dịch “Chiến tranh Chính trị”. Lúc đó thì mọi chuyện thật mù mờ nhưng càng lúc thì càng rõ hơn là chuyện này có liên quan đến Hiệp định Paris đang được bàn cãi và sắp ký kết. Nói chung là chúng tôi sẽ được gởi đến các vùng nông thôn hẻo lánh để “cắm cờ” và dành dân chiếm đất.

Cũng cần nói rõ hơn là trong lúc chuyện biệt phái bị ngưng lại thì bên ngoài, chuyện miễn dịch cũng bị hủy bỏ. Hàng ngàn sinh viên được miễn dịch để học Đại học đều được gởi vào quân trường vì chiến trường thiếu sỹ quan. Thông thường, như năm 1971, có 4 khoá học ở Thủ đức. Tôi vào khoá 2/1972 thì sau đó không lâu có khoá 3,4,5,6,7,8 hay nhiều hơn, tôi không rõ. Chỉ biết đến khoá 6 thì trường Thủ đức không còn chỗ chứa nên các khóa sau đó phải gởi ra thụ huấn ở trường Hạ sĩ quan Đồng Đế (Nha Trang). Khoá của tôi vừa ra trường, mang lon chuẩn úy  hướng dẫn 4 đàn em các khoá 3,4,5,6 đi “dành dân chiếm đất”. Đây là một nhiệm vụ thật nguy hiểm vì chúng tôi chỉ có 5 người, không có lính, không có kinh nghiệm tác chiến, lại phải đi về các thôn ấp hẻo lánh, có ấp được đánh giá là không an toàn cả ngày lẫn đêm, để tranh dành ảnh hưởng. Trong tài liệu còn ghi rõ là ngay cả những viên chức trong ấp cũng không thể tin cậy được. Rất may là hơn 2 tháng đi chiến dịch, nhóm của tôi không bị thiệt hại gì và vào ngày 23/1/1973 thì  tất cả đã về lại quân trường Thủ đức an toàn.

Đến ngày 27/1/1973 thì Hiệp định Paris được chính thức ký kết và lần này thì không còn trục trặc gì nữa, ngày 28/1/1973 tôi nhận được giấy biệt phái về đi dạy lại ở trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Phú Thọ. Tưởng cũng cần nói thêm là có vài người bạn về sau tôi 6 tháng, đáng lẽ phải đi thụ huấn vào tháng 10/1972 thì lúc đó quân trường hết chỗ, lại thêm tình hình chiến sự cũng đã lắng dịu nên tạm hoãn chờ lệnh mới. Sau đó vì nhận thấy huấn luyện quá tốn kém mà lại không dùng cho nên lệnh mới là “động viên tại chỗ” nghĩa là không cần phải đi huấn luyện 10 tuần nữa. Nói tóm lại nếu tôi về nước trước 6 tháng hay sau 6 tháng thì không phải là sĩ quan trong quân đội, tránh được những hệ lụy sau 1975.

Từ ngày trở về dạy lại ở trường Phú Thọ thì cuộc sống hoàn toàn giống như trước ngày đi lính. Tuy nhiên, trên nguyên tắc tôi là một sĩ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng. Vì thế, theo điều lệ của Bộ Quốc phòng, tất cả các chuẩn úy tốt nghiệp trường Bộ binh Thủ đức sẽ tự động được thăng cấp thiếu úy sau 18 tháng. Như vậy là vào khoảng tháng 4 năm 1974, tôi được thăng cấp thiếu úy cho dù chỉ thuần túy đi dạy học trong thời gian đó.

Sau 1975, các quân nhân từ cấp chuẩn úy trở xuống binh nhì chỉ cần trình diện tại địa phương và sau 3 ngày có thể trở về nhà sinh hoạt bình thường. Các sĩ quan từ cấp thiếu uý trở lên thì phải đi trình diện “học tập tập trung”. Thế là từ chuyện đi thụ huấn quân sự không đúng lúc dẫn đến hệ quả là từ tháng 6 năm 1975 tôi phải đi học tập 2 năm rưi, di chuyển từ Tây Ninh lên Xuân Lộc rồi về Hóc Môn và sau đó thì được trở về làm việc tại trường cũ, lúc này đã đổi tên là Trường Đại học Bách khoa. Chuyện học tập thì đã có nhiều người nói đến nhưng đối với riêng tôi, điều khó khăn nhất là không biết đến lúc nào mình mới “học” cho xong. Cứ vài ba tháng là một số người được lệnh thu dọn hết hành trang để di chuyển. Bao nhiêu lần tưởng là được về nhưng sau đó mới biết chỉ là chuyển đến một trại mới. Danh từ thường dùng cho các lần chuyển trại này là “biên chế”. Riêng tôi, sau khoảng 5,6 lần “biên chế” thì mới được tha về.

Ngày đầu tiên về Trường Bách khoa,  Bà Bí thư Đảng ủy của trường cho tôi biết là Trường Phú Thọ cũ có rất nhiều người đi “học tập tập trung” nhưng nhà trường chỉ nhận lại có 3 người. Một là giáo sư Trần An Nhàn, một vị giáo sư kỳ cựu đã dạy ở trường kỹ sư Điện lúc tôi mới vào trung học. Hai là giáo sư Võ Thế Hào, một người mà tôi biết đến rõ nhất qua các cuốn sách toán mà tôi đã học trong 2 năm đệ nhị và đệ nhất. Thật hân hạnh cho một kẻ hậu sinh như tôi lại được làm người thứ ba trong danh sách. Tuy nhiên lúc trở về lại trường cũ, bây giờ gọi là Khoa Hoá, thì các đồng nghiệp của tôi, tuy vẫn được lãnh lương nhưng đều “ngồi chơi xơi nước”. Một trong những người sáng giá nhất trong chúng tôi đã tốt nghiệp Ph. D. ở Princeton, một văn bằng mà không những khắp nước Mỹ mà cả khắp thế giới đều ntrọng, hiện giờ chỉ làm phụ giảng trong phòng thí nghiệm. Tương lai của tôi chắc cũng không thể khá hơn được và vì vậy tôi phải tìm giải pháp cho riêng mình.

Thành thật mà nói, so với bạn bè, tôi là một người nhát gan. Thế nhưng không hiểu tại sao tôi đã nhiều lần tìm đường ra khơi cho dù hết lần thất bại này đến lần thất bại khác. Nhiều lần đến nỗi tôi không nhớ hết nhưng ít ra cũng khoảng 8 đến 10 lần. Trong 10 lần đó thì đa số là mang hành trang, từ giã vợ con, gia đình rồi mấy ngày sau lại trở về hoặc là bị lừa hoặc là bị lộ phải chạy trốn về nhà. Những lần như vậy nhiều đến nỗi không làm ai ngạc nhiên cả. Còn nhớ một lần tôi chạy trở lại về nhà ngồi uống nước trà thì vợ tôi đi làm về. Thấy mặt tôi, bà chỉ nói một cách thản nhiên là “anh về rồi đó à ?” rồi đi thẳng xuống bếp nấu ăn. Mỗi lần đi xem như là “thập tử nhất sinh” thế mà phản ứng của người thân nhất lại như vậy đủ nói lên số lần tôi “đi rồi lại về”.

Trong tất cả các lần ra đi, chỉ có 3 lần tôi thấy được con tàu. Một lần ở Rạch giá thì đã ra đến bến chỉ cách con tàu chừng 50 thước thì bị lộ, phải băng đồng vượt suối suốt đêm mới đón được xe về nhà. Một lần ra tới cửa biển rồi thì bị bắt ở tù 6 tháng ở Bến tre. Lần cuối cùng, xuất phát từ Cà mâu, thì thật nhiều trắc trở nhưng may gặp được tàu thuộc Hạm Đội 7 của Mỹ cứu vớt. Đó cũng là lý do tại sao cuối cùng tôi lại định cư ở xứ California xa xôi này.

Thời gian 10 năm kể từ ngày rời Québec cho đến ngày định cư ở Mỹ có thể chia ra làm 4 giai đoạn chính : thụ huấn ở Trường Bộ binh Thủ đức, học tập tập trung, làm việc ở Trường Đại học Bách khoa và những lần ra khơi. Nếu viết hết tất cả kỷ niệm vui buồn thì mỗi giai đoạn có thể cần đến vài trăm trang. Sau đây tôi chỉ nói đến vài kỷ niệm trong khuôn khổ giới hạn của bài viết hôm nay.

Quân trường Bộ binh Thủ đức

Trong thời gian huấn luyện ở Thủ đức, trung đội của tôi có một người tên Cường. So với các bạn thì Cường có chiều cao trên trung bình, 1m73. Vấn đề của Cường là ở cân nặng , chỉ 37kg. Nhìn con người cao lêu nghêu, đi khập khiểng, tay chân chỉ có da bọc xương, không ai là không thắc mắc tại sao Cường có thể qua được lần khám sức khoẻ trước khi vào trường.

Những ngày đầu của thời gian huấn luyện, 5 giờ sáng là phải thức dậy, học tập và huấn luyện cho đến chạng vạng tối. Thế nhưng ăn tối xong là phải tụ tập “sinh hoạt’ cho đến 11 có khi 12 giờ đêm. Nói là “sinh hoạt” chứ thật sự đây là lúc các “huynh trưởng” ( sinh viên sỹ quan thuộc các khoá đàn anh) hành hạ thân xác các đàn em mới vào, còn gọi là “tân khoá sinh”. Trong lúc sinh hoạt, có hàng trăm lý do để bị phạt. Ngồi không đúng cách, phạt. Im lặng quá, phạt. Ồn ào quá, phạt. Nói nhỏ quá, phạt. Nói lớn quá, phạt. Mà phạt thì ít ra cũng phải 50 cái hít đất, còn phải “đúng kiểu” mới được. Mới vào trường, chúng tôi giỏi lắm cũng chỉ làm được 10 hay 20 hít đất là cùng, phần còn lại thì qua quít cho xong. Có khi thì được tha nhưng gặp ông huynh trưởng hắc ám thì làm đến cái thứ 50 thì phải làm lại từ đầu vì không đúng kiểu. Nói chung đây là thời gian tập làm quen với kỷ luật đồng thời huấn luyện thể lực.

Riêng đối với Cường thì khi bị phạt, anh ta chỉ chống tay rồi nằm mọp xuống đất và ... thút thít khóc. Nói cho rõ ràng hơn là Cường không đủ sức để làm một cái hít đất. Các anh huynh trưởng hùng hổ chạy lên chạy xuống phạt hết người này đến người khác, có người bị phạt đến ngất xỉu. Thế nhưng “khóc” thì các anh chịu thua ! Với lại nhìn vào vóc dáng của Cường các huynh trưởng cũng thấy là hết cách để huấn luyện cho nên để yên Cường muốn làm gì thì làm.

Không ai có thể ngờ được là sau khoảng 8 tuần huấn nhục, Cường đã cân nặng 48kg, có da có thịt và đi đứng gần bình thường như các bạn khác. Sau 9 tuần thì tất cả “tân khoá sinh” phải qua cuộc thử nghiệm cuối cùng trước khi được gắn “alpha” và thăng lên làm “sinh viên sỹ quan”. Đó là một cuộc “di hành” dài 36km, vai phải mang ba-lô nặng 30kg và đầy đủ súng đạn. Riêng phần tôi, vào trường nặng 48kg nhưng lúc đó lên 56kg, đã hoàn tất cuộc di hành từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều và về đích trong tốp đầu tiên. Sau đó chúng tôi đứng cổ võ các bạn khác lần lượt về tới đích. Vào khoảng 6 giờ 30 thì nhóm cuối cùng cũng về tới trong đó có Cường, hơn hẳn mấy mươi bạn khác không đủ sức hoàn tất cuộc di hành và phải trở về trên xe cứu thương.

Sau khi đã trở thành sinh viên sĩ quan thì chúng tôi được tự do đi lại nên cho dù ở cùng trung đội, nếu không là bạn bè thì cũng ít gặp nhau. Một hôm đang ngồi nghỉ giữa 2 giờ học thì nghe tiếng hò reo nên chạy lại xem thì thấy 2 bạn cùng khoá đang thi nhau xem ai hít đất nhiều hơn. Tôi nhìn ra người nhỏ con hơn là Đáng, nhỏ con nhưng rất dẻo dai và tinh nghịch. Người kia thì lớn con hơn nhiều và tôi chưa kịp nhận ra là ai thì một anh bạn đã buộc miệng nói: ”Chuyện khó tin nhưng có thật, thằng Cường mà dám thách thằng Đáng hít đất. Thua ba ăn trưa là cái chắc”. Tôi nhìn lại và thấy Cường lúc này chắc là phải hơn 50kg, người đen sạm hoàn toàn khác hẳn với ngày mới vào trường, đang ráo riết hít đất tranh đua với Đáng.

Nếu tôi là người thân của Cường thì chắc đã rơi rất nhiều lệ lúc đưa Cường vào thụ huấn. Nhưng giờ đây tôi lại phải cám ơn vì có lẽ quân trường này là nơi duy nhất có thể làm một người như Cường khoẻ mạnh, tự tin và trưởng thành một cách mau chóng như vậy.

Phương thuốc thần kỳ

Trong trại học tập thì có 3 thứ quý nhất, theo thứ tự là cơm, muối và thuốc lào. Thuốc lá thì mấy tháng đầu có được phân phối mỗi tháng vài điếu, chẳng đủ thiếu vào đâu. Hút thuốc lào thì chỉ cần một “vê” bằng đầu ngón tay út là có cảm giác say lâng lâng đến tận đầu ngón tay, ngón chân và có thể kéo dài năm ba phút. Mỗi ngày chỉ cần hút vài ba lần là đủ. Ngay cả những người trước kia không hút thuốc cũng đâm ghiền thuốc lào. Ít nhất vài ba lần một ngày có thể tạm quên những băn khoăn ray rứt trong lòng.

Lúc ở Xuân Lộc, trại chúng tôi ở bên cạnh bệnh xá chung cho tất cả các trại. Những người bị bệnh nặng không thể đi lao động thì được đưa đến đây để tnh dưỡng. Một hôm anh bạn trong nhóm 4 người ăn cơm chung với tôi có móc nối được với Tân, một người bị bệnh khá nặng hiện đang nằm ở bệnh xá. Tân ăn không ngon miệng nhưng lại thèm thuốc lào cho nên đề nghị đổi cơm lấy thuốc lào. Chúng tôi cũng bàn luận sơ sài vì tuy thuốc lào là quý nhưng cơm thì vẫn quý hơn và bằng lòng trao đổi. Hai ngày đầu Tân chỉ đổi ½ khẩu phần cơm mà thôi. Bắt đầu từ ngày thứ ba thì anh ta nhờ một người bạn trao đổi nguyên phần cơm và yêu cầu tăng gấp đôi lượng thuốc lào. Chúng tôi hỏi anh bạn thì anh cho biết là lúc này Tân yếu lắm, đi lại không tiện, chắc là không còn bao lâu nữa, nên nhờ anh làm trung gian. Trao đổi được thêm 3 ngày nữa thì không thấy bóng dáng của Tân hay người bạn của anh ta đâu nữa. Chúng tôi dự đoán chắc là chuyện chẳng lành rồi, có lẽ Tân đã ra đi. Tuy vậy ngày ngày đến giờ hẹn chúng tôi cũng lảng vảng cạnh hàng rào để xem có gặp lại hay có tin tức gì của Tân hay không. Sau khoảng chừng một tuần mà không thấy tin tức gì, xem như mối nghi ngại của chúng tôi đã là sự thật rồi. Tuy nhiên để cho dứt khoát, một hôm tôi bạo dạn ngoắc tay gọi một người vừa từ bệnh xá bước ra sân. Anh ta nhìn trước sau thấy vắng vẻ nên từ từ bước đến cạnh hàng rào. Tôi vội hỏi:
--Mấy hôm nay bên đó có “tiễn biệt” người nào không ?
--Không có. Tuy nhiên tôi mới vào bệnh xá chừng 3,4 ngày thôi.
--Thế anh có biết người nào tên Tân không ?
--Có gặp nhưng hôm tôi vào thì ngày hôm sau Tân và 4 người khác đã rời bệnh xá về lại trại của họ rồi.
--Về rồi à ?! Không phải Tân bị bệnh nặng lắm hay sao ?
--Anh là bạn của Tân ? Tôi cũng có nghe Tân và mấy người bạn kể chuyện. Nghe nói Tân bị bệnh nặng không ăn uống gì được và mấy người bạn mới nghĩ ra một kế, phao tin là nguyện ước của Tân trước khi chết được ăn một ba thịt bò và các anh đóng tiền lại đồng thời thuyết phục anh y tá ra chợ mua giùm. Theo các anh nói thì mục đích chính là để các người bạn ăn chứ Tân thì không ăn uống gì được đã mấy ngày rồi. Hôm đầu xào thịt bò, thơm quá nên Tân ráng ngồi dậy và ăn được một chén cơm. Ngày hôm sau, còn lại một ít thịt bò, Tân ăn hết phần cơm luôn. Thấy tình hình khả quan, các anh lại năn n anh y tá đi mua thêm một lần thịt bò nữa. Chỉ trong vòng 3 ngày được ăn thịt, Tân khoẻ hẳn và sau đó y tá khám bệnh lại cho Tân và 4 người bạn của Tân thì thấy mọi người đều khoẻ mạnh nên đã cho xuất viện. Lúc tôi vào gặp anh Tân thì thấy anh hơi gầy một chút nhưng linh hoạt và khoẻ hơn tôi nhiều.

Trong buổi ăn tối hôm đó, sau khi ôn lại câu chuyện của Tân, 4 người chúng tôi bỗng trở nên im lặng và trầm tư hơn. Dĩ nhiên chúng tôi mừng cho Tân đã qua được kiếp nạn nhưng hình như mọi người đều thấy đây không phải là một trường hợp cá biệt. Rất có thể một ngày nào đó chúng tôi cũng sẽ vào bệnh xá với một căn bịnh tương tự. Không biết là chúng tôi có được đám bạn láu lnh như các người bạn của Tân, cũng như không biết có gặp được người y tá tốt bụng để mua “thần dược” trị lành bịnh hay không ?   
 
Người bạn tù

Tháng tư, 1980, tôi được hướng dẫn lấy xe bus đi từ Saigon đến Vĩnh long. Nằm chờ ở đó 10 ngày rồi lên tàu ra biển. Đây là một trong những chuyến đi suông sẻ nhất nhưng đến phút chót, lúc sắp ra cửa biển thì gặp sóng lớn. Tàu phải chạy chậm lại cho nên lúc tới được cửa biển thì trời đã hừng sáng và đã bị tàu tuần chận bắt đưa về nhà giam ở Bến tre.

Đây là cao điểm của phong trào vượt biên nên các nhà giam chật cứng. Các người lớn tuổi (trên 50) và các bạn trẻ (20 trở xuống) thì sau vài ba ngày là được tha về hết, chỉ còn những người trung niên thì bị giữ lại để điều tra. Riêng phần tôi thì được đưa vào một phòng giam nhỏ đã có sẵn 4 người, thêm tôi vào là thành 5 người.

Có lẽ cũng nên nói rõ thêm về thành phần những người trong phòng giam. Người kỳ cựu nhất can tội giết người, đã chờ gần 2 năm vẫn chưa ra toà. Người thứ 2 can tội đả thương nhưng sau đó vài tháng thì nạn nhân cũng đã qua đời và đã chờ ra toà gần 1 năm. Người thứ 3 đã tham gia một nhóm phục quốc và đã ở tù được 8 tháng. Người thứ tư thì cũng vượt biên như tôi bị bắt 3 tuần trước đây. Không hiểu bắt đầu như thế nào nhưng chỉ vài ngày sau đó, lúc ăn cơm thì tôi lại ăn cơm chung với người tù can tội giết người. Anh này người nam kỳ và tướng tá rất dữ dằn. Trong gần 3 tháng trời ở trong phòng này, anh trở thành người bạn thân của tôi và vì anh nhỏ hơn tôi vài tuổi nên tôi thường gọi anh ta là Tư.

Căn phòng giam chúng tôi mái lợp tôn, bề dài là 2m20 và bề rộng là 1m40. Theo lời của Tư thì trước đây phòng này là phòng biệt giam chỉ để nhốt những người vi phạm k luật và “biệt giam” có nghĩa là chỉ nhốt một người mà thôi. Bây giờ có đến 5 người. Trước hết chúng tôi phải nằm theo chiều ngang, dĩ nhiên phải co chân lại vì ai cũng cao hơn 1m40 hết. Chiều dài phải trừ đi 0m20 cho cái bô vệ sinh, như vậy chỉ còn lại 2m chia cho 5 người, mỗi người được 0m40. Cho dù nhỏ con cách mấy đi nữa thì bề dài của đôi vai cũng hơn 0m40. Vì vậy theo sự điều động của Tư chúng tôi phải nằm ngược chiều nhau. Phòng nhỏ như vậy nên ban ngày ngồi hay đứng thì còn có chỗ trống. Lúc ngủ ban đêm thì phòng chật cứng rất nóng nực cho nên, cũng theo sắp xếp của Tư, không ai được bận quần áo gì hết lúc ngủ. Vừa “trần như nhộng” lại nằm ngược chiều nhau, chắc không cần mô tả thêm cũng biết được là những ngày đầu tiên, thật sự rất khó ngủ.

Cả căn phòng chỉ có một lỗ thông hơi khoảng 20cm x 30cm vừa đủ để đưa cơm vào. Những lúc có ánh mặt trời chiếu xuyên qua thì có thể nhìn thấy không khí cuồn cuộn tuôn vào. Rõ ràng là 5 người chúng tôi cần nhiều không khí hơn lỗ thông hơi có thể cung cấp. Trong chúng tôi thì anh tù “phục quốc” là cao ráo đẹp trai hơn cả. Tuy ở tù khá lâu nhưng ngực còn nở nang và tay cũng còn bắp thịt rắn chắc. Nghe đâu anh ta vốn là giáo sư, lại có tập thể dục thẩm mỹ và đã từng dự thi giải “con kiến càng” ở địa phương. “Coi dzậy mà không phải dzậy”, cứ thỉnh thoảng “con kiến càng” mặt mày xanh xám lăn đùng ra muốn xỉu. Những lúc như vậy, Tư vội kêu mọi người tránh chỗ để con kiến càng đưa mũi ra lỗ thông hơi để thở không khí trong lành cho tỉnh người. Anh ta giải thích là ngực và phổi nở nang chính là tai hoạ. Lượng không khí anh ta cần phải gấp đôi hay ít nhất gấp rưi người thường nên nếu thiếu thì sẽ ngất xỉu. Vẫn còn nhớ lúc đi học tập, anh nào khoẻ mạnh, ăn nhiều là một tai hoạ. Không ngờ có lúc phổi lớn, thở nhiều cũng là một tai hoạ.

Trời đã bắt đầu vào hạ và nắng rất gắt. Một hôm, Tư họp mọi người lại và đặt ra luật mới. Theo Tư thì từ bây giờ trở đi trời sẽ rất nóng nực cho nên đến giờ cao điểm, khoảng từ 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều, tùy theo tình hình, mọi người có thể tuần tự thay phiên nhau được ra lỗ thông hơi để thở trong 1 phút. Cứ 2 người thì lại đến phiên “con kiến càng”. Nói một cách khác con kiến càng được cung cấp lượng không khí gấp đôi các người khác.

Ở được chừng một tháng thì tôi bị một mụt nhọt nhỏ hơn đầu ngón tay bên hông bắp chân. Thông thường thì mụt nhọt sẽ bị chảy mủ và sau đó thì hết. Không hiểu vì điều kiện vệ sinh hay vì thiếu sức đề kháng, vết thương bị nhiễm trùng và lan từ bàn chân đến đầu gối. Lúc đầu thì cũng hy vọng rồi cũng sẽ qua đi. Nhưng sau đó thì sưng lên tới háng và tôi không đi được nữa. Tư phải đi xin phép cán bộ và sau đó thì cõng tôi ra bệnh xá. Cũng may là ở bệnh xá có bác sĩ, không biết tội danh gì nhưng cũng là tù như chúng tôi. Anh ta xem xét vết thương và quay sang cái tủ thuốc trống rỗng của anh lục lọi một hồi rồi nói:Tôi còn một chai cồn nhỏ tạm đủ dùng và có một cái cưa ống tiêm có thể dùng để rạch vết thương và nặn mủ ra. Chắc là vết sẹo sẽ không đẹp so với dùng dao m nhưng không sao. Bông gòn thì không còn nên bây giờ anh phải làm sao xin cán bộ mua một hộp bông gòn và 16 viên tétracycline”. Anh nhìn tôi với đôi mắt ái ngại vì chuyện xin mua thuốc không phải là chuyện đương nhiên nhất là lúc đó tôi không có tiền mà phải xin dùng số tiền tôi mang theo và bị tịch thu lúc bị bắt, không biết bây giờ ai giữ và giữ ở đâu. Sau khi cõng tôi về phòng, Tư lại xin cán bộ lên văn phòng để xin mua thuốc cho tôi. Không biết Tư làm cách nào mà cuối cùng mang về phòng cho tôi một tấm biên nhận để tôi ký là sẽ lấy một phần trong số tiền bị tịch thu của tôi để mua thuốc.

Ngày hôm sau tôi nhận được bông gòn và thuốc tuy có một sai biệt nhỏ. Vì không tìm được tétracycline nên cán bộ đã mua thuốc “xuyên tâm liên” (làm từ lá cây có tác dụng khử trùng) để thay thế. Lúc gặp lại bác sĩ tôi cũng có hỏi về thuốc xuyên tâm liên thì anh bác sĩ cười nói:”Tôi thì cũng như anh mà thôi. Có nghe nói nhưng chưa hề dùng cho tôi hay cho bệnh nhân. Anh cũng biết thế nào là trụ sinh, nếu lấy lá vo lại mà có thể dùng như trụ sinh thì tôi chưa học qua. Tùy ý anh, nếu muốn thì tôi sẽ m cho anh. Có một điều chắc chắn là tối nay có thể anh không cần ăn cơm. Viên thuốc c này (gần bằng ngón tay út) mà uống mỗi lần 7 viên, 4 lần mỗi ngày, thì đủ no rồi!”. Tôi biết tình hình rất nghiêm trọng, có thể bị cưa chân hay nguy hiểm đến tánh mạng nên không còn lựa chọn nào khác và bằng lòng làm phu thuật. Thuốc sát trùng là một chai cồn nhỏ xíu mà anh bác sĩ chỉ xài rất dè xẻn để dành cho các bệnh nhân sau này. Thay vì là dao m thì là dao cưa ống tiêm và thay vì tétracycline thì dùng xuyên tâm liên. Dĩ nhiên là không có thuốc tê hay mê gì cả. Người ta vẫn thường nói “trời sinh, trời dưỡng”, chỉ khoảng chừng 5 ngày sau thì tôi có thể đi đứng lại bình thường.

Ở phòng biệt giam được hơn 2 tháng thì tôi được chuyển sang một phòng khác và từ đó tôi không hề gặp lại Tư. Tuy nhiên mỗi lần nhớ đến chuyện ở Bến Tre thì tôi lại nhớ đến anh ta. Có thể nói tôi và Tư đã lớn lên ở hai môi trường thật cách biệt nhưng không hiểu tại sao chỉ có 2 tháng trời ngắn ngủi mà chúng tôi đã thành đôi bạn thân. Chúng tôi có rất nhiều những kỷ niệm vui buồn khác nữa nhưng không thể nói hết trong khuôn khổ bài viết này. Tư là một người thông minh, tháo vát, nhiều nhiệt tình và rất có nghĩa khí, không hiểu tại sao lại mắc phải lỗi lầm lớn như vậy. Điều này tôi đã cố ý không hỏi cặn k và rất ít khi nhắc tới. Chỉ mong rằng Tư sẽ chỉ nhận một bản án nhẹ và bây giờ đã trở về sống an vui với gia đình.

Chuyến tàu định mệnh

Tháng 9 tôi được thả về thì đầu tháng 12, 1980 tôi lại tìm đường ra khơi một lần nữa. Đây là một chuyến đi với rất nhiều trắc trở ngay từ lúc lên xe bus tại Saigon và trong suốt chuyến đường bộ qua Mỹ tho, Vĩnh Long rồi đến Chương Thiện. Ở Chương Thiện chúng tôi lên một chiếc tàu chở củi khổng lồ hướng về phía Cà Mâu. Đây là một tổ chức khá nghịch lý. Thông thường chúng tôi đi từng nhóm nhỏ trên các chiếc ghe rồi lên tàu lớn hơn để ra biển. Ở đây chúng tôi đi từ tàu lớn và đến Cà Mâu thì chuyển sang tàu nhỏ để ra khơi. Vì chiếc tàu chở củi quá lớn nên chúng tôi không có cảm giác số người là bao nhiêu. Đến một đoạn sông ở Cà Mâu gần cửa biển thì chúng tôi được lệnh chuyển sang tàu để ra khơi. Đàn ông khoẻ mạnh thì được xuống trước ở một căn hầm cao chừng 8 tấc, chỉ đủ để ngồi san sát vào nhau. Lúc hầm đã đầy thì đàn bà, trẻ em và các người lớn tuổi được chuyển xuống và ngồi ngay trên đầu chúng tôi. Mọi người đang từ từ vào chỗ thì nghe có tiếng cãi vã, đại ý là chủ tàu than phiền người quá đông, không đủ chỗ.  Sau này chúng tôi mới biết là có khoảng từ 350-400 người xuống tàu được nhưng có hơn 100 người phải trở về. Có gia đình đi 4,5 người nhưng chỉ có 2,3 người xuống tàu được và sau này liên lạc lại mới biết. Cũng như sau này chúng tôi mới biết tàu chỉ dài 14m, rộng 3m. Nếu đi khoảng 50 người thì thoải mái, 100 người là đã chật chội rồi. Cũng vì số lượng người quá đông như vậy nên không chuyển các thùng đựng nước ngọt xuống được và trong suốt chuyến đi, chúng tôi không được phát một giọt nước nào cả.

Cuối cùng thì con tàu cũng bắt đầu di chuyển. Mới đi được khoảng chừng 2 giờ thì tàu bị mắc cạn. Chúng tôi (đàn ông) được lệnh phải xuống nước để đẩy tàu. Tôi phải để lại hết áo quần trong cái xách nhỏ mang theo, chỉ bận quần đùi nhảy xuống nước. Bùn lên tới bụng, nước ngang sống mũi, mọi người chỉ lội bì bõm chứ đâu còn sức để đẩy tàu. Cũng may lý do chính tàu mắc cạn là vì quá tải nên sau khi một số người nhảy xuống nước thì vấn đề được giải quyết và tàu lại tiếp tục di chuyển. Phần tôi sau khi leo lên tàu trở lại thì không tìm được chỗ cũ nữa nên ngồi tạm ở chỗ gần nhất chờ trời sáng thì mới tìm lại hành trang. Tuy đó chỉ là một cái xách nhỏ nhưng có chứa một ít nước, chanh, đường và nhất là còn 2 chỉ vàng khâu vào trong quần dài. Ít ra số lượng nước, chanh và đường có thể giúp tôi sống sót khoảng một tuần.

Chỉ mới đi chừng 2 giờ nữa thì nghe một tiếng “rầm” thật lớn. Thì ra con tàu này chỉ có một khoang bên trong. Vì muốn lấy nhiều khách nên chủ ghe đóng thêm một gác lng, ngay trên đầu chỗ nhóm đàn ông ngồi. Vì số người trên gác lng quá đông nên toàn bộ bị gãy ngang. Trời tối như mực, tôi không biết các người ngồi ở giữa có ai bị thương không. Thật may cho tôi là lúc đầu tôi ngồi ở giữa nhưng sau khi đẩy ghe lên lại thì tôi lại ngồi tựa lưng vào thành tàu. Vì vậy khi gác lng bị gãy, tôi không hề hấn gì. Trên tàu bây giờ thật hỗn loạn và không có gì bảo đảm là gác lng lại không bị gãy thêm nữa và các người bên trên có thể đè bẹp người bên dưới. Tôi từ từ bò theo hông tàu ra tới cửa và leo lên trên đuôi tàu. Trong lúc di chuyển, tôi vớ được một cái áo len cánh mỏng, không biết của ai nhưng cứ mặc vào vì lên đuôi tàu thì sẽ lạnh hơn. Trước lúc đi, tôi có mang theo một đoạn dây thừng rất cần thiết cho trường hợp này. Ở đuôi tàu có một cây cột, nếu tôi cột dây thừng vào đó và vào người tôi thì nếu có ngủ quên cũng không rơi xuống nước. Bây giờ thì túi hành lý không biết ở đâu và hầu như không có hy vọng để tìm lại. Tôi đành nắm tay vào cây cột cho dù biết rằng nếu ngủ gục thì cũng chẳng ích lợi gì. Cũng may là sau tôi cũng có một số người bò lên đuôi tàu nằm hai bên và chắc nếu có ngủ quên thì họ cũng rơi xuống nước trước. Số người bò lên đuôi tàu lúc càng đông và sau đó hết chỗ nên leo lên cả trên trần phòng lái. Khoảng giữa trưa thì ở đuôi tàu và phòng lái đều đầy người rồi nên chúng tôi buộc phải đóng cửa hầm tàu không cho ai lên nữa hết.

Đến xế chiều thì chúng tôi bị tàu công an tuần dương bắt giữ. Nếu nói thêm chi tiết về chuyện này thì quá dài nên chỉ cần biết là sau đó chúng tôi được thả cho đi sau khi có một ít “trà nước”. Như vậy là chúng tôi chỉ mới đi được một ngày mà đã có quá nhiều biến động. Mọi người mệt mỏi ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, con tàu đang ì ạch bò trên mặt nước thì nghe có tiếng lõm bõm và có tiếng la “có người rớt xuống nước”. Tôi ngồi đàng sau nên nhìn rất rõ, thấy một cậu bé chừng 14,15 tuổi đang ráng sức bơi. Một người nào đó ném một cái phao xuống nước. Xem ra cậu bé bơi khá giỏi và đang ra sức bơi về phía cái phao. Tôi cứ yên trí là tàu sẽ quay lại để vớt cậu bé. Tuy nhiên tàu cứ tiếp tục đi, xa dần, xa dần. Cậu bé chỉ còn là một chấm nhỏ nhấp nhô theo sóng biển. Nhìn nét mặt vừa bi ai vừa phn nộ của tôi, anh bạn ngồi bên cạnh nói:”Tàu chạy chậm như rùa lại quá tải, muốn quay lại cũng phải cả giờ, chắc thằng bé đã đi tiêu rồi, chưa kể ghe này là “ghe bầu”, chưa quay lại được thì đã chìm”. Bắt chuyện với anh ta tôi mới biết ghe bầu có đáy tròn, chỉ dùng để đi trên sông mà thôi. Sóng lớn một chút là bị lật ngay. Lúc này là tháng 12, thường có biển động, nhất là vùng biển đông. Chúng tôi đang ở vịnh Thái Lan, tương đối ít sóng hơn. Tuy nhiên nhìn chung quanh, chỉ có sóng gợn lăn tăn, êm ả hơn cả đi trên sông nữa. Thật là hiếm thấy.

Vào giữa trưa ngày thứ 3 thì trên tàu như ni loạn. Các người dưới hầm tàu đấm cửa rầm rầm và đòi phải được lên trên vì ở dưới quá nóng và ngộp thở. Chiếc tàu chòng chành như muốn lật. Sau khi nói chuyện và điều đình thì được biết bên dưới có nhiều người chết nằm choán chỗ nên đã chật lại càng chật thêm. Chúng tôi phải cố giải thích là bên trên cũng hết chỗ và sau đó có 4 thanh niên tình nguyện xuống để dọn sạch các xác chết cho rộng chỗ. Sau khi các thanh niên xuống dưới dọn dẹp xong và trở lên thì tình hình tạm ổn. Tôi hỏi họ là đã quăng xuống biển chừng bao nhiêu người thì họ bảo khoảng 20 người. Khi tôi gặng hỏi là có thử xem đã tắt thở chưa thì họ trả lời:”Ở dưới đó lộn xộn và họ dữ dằn lắm. Tụi em cũng đâu biết và đâu có thì giờ để thử. Cứ nắm được người nào nằm bất động mà không phản kháng hay không có thân nhân ôm lại thì ném xuống biển thôi”.

Buổi chiều hôm đó thì lại có nhiều người rớt xuống biển. Lúc đó tôi cũng đã yếu đi nhiều, v lại đã từng chứng kiến em nhỏ bị bỏ rơi không thương tiếc nên chỉ lặng lẽ nhìn những người đang cố bơi theo tàu một cách tuyệt vọng rồi từ từ biến mất. Chỉ trong 2 ngày mà có khoảng từ 20 đến 30 người bị rớt xuống biển. Đặc biệt là có 2 người sống sót. Một người đã cẩn thận cột mình vào thân tàu trước khi nhảy xuống và một người vốn thuộc binh chủng người nhái nên đã nổi trôi mười mấy giờ trên biển, cuối cùng được hải quân Thái Lan cứu đem đến tụ họp với chúng tôi lúc đó đang ở trên chiến hạm của Mỹ. Hỏi lại 2 người này thì họ đều nói rất mù mờ. Thiếu nước, trời lại nóng nực sinh ra ảo tưởng, cứ ước ao nhảy xuống dòng nước trong mát và đã mơ mơ màng màng nhảy xuống lúc nào không hay. Còn nhớ lúc nhỏ vẫn thường xem sách về Tintin, đi trong sa mạc, ở đâu cũng thấy toàn là nước mát và đã phóng vào đó dập đầu sứt trán. Nói tóm lại đa số những người bị “rớt” xuống biển thật sự là tự mình nhảy xuống. Nếu không kể 2 ngày đi trên sông, chúng tôi chỉ mới ra biển có 3 ngày mà tình trạng thật tồi tệ. Sau này ở trại tỵ nạn, nói chuyện với các thuyền nhân khác thì có người đã lênh đênh cả tháng trời cũng không đến nỗi như vậy. Dù sao, so với các thuyền khác, số lượng người trên cùng diện tích của thuyền chúng tôi thì ít nhất cũng là 5 lần hay hơn, chưa kể là hoàn toàn không có nước.

Qua được một đêm nữa, sang sáng ngày thứ tư, cám ơn Trời Phật, biển vẫn lặng như tờ, nhưng trên thuyền lại ni loạn và các anh thanh niên lại phải xuống làm nhiệm vụ. Các anh này bây giờ trông bạc nhược và khi tôi đưa mắt ra dấu hỏi xem bao nhiêu thì câu trả lời là “cũng c 20 người như hôm qua”. Chỉ mới chưa được 4 ngày nhưng thật là dài đối với tất cả mọi người. Ngồi trên thuyền, tứ bề sóng nước mênh mông đem lại cái cảm giác vừa cô đơn vừa sợ hãi xen lẫn với tuyệt vọng. Bỗng dưng có người la lên:”có tàu đến rồi !”. Thật sự chỉ là một chấm đen ở thật xa, nhưng 4 ngày thật dài đã qua rồi, chỉ có sóng và nước, có một chấm đen là có một tia hy vọng. Mọi người bắt đầu vẫy khăn và la hét. Chiếc tàu, chắc là vậy, từ từ lớn dần và không những chỉ phía bên trái mà bên phải dường như cũng có một chiếc nữa. Chỉ vài phút sau thì nghe có tiếng máy bay. Một anh đứng bên cạnh nhìn ra ngay là máy bay OV-10, loại máy bay thám thính của quân đội Mỹ. Như vậy là tàu của quân đội Mỹ và chắc chắn là chúng tôi được cứu rồi. Mọi người tiếp tục vẫy khăn và la hét vang rân trong khi chiếc OV-10 bay vòng quanh trên tàu chúng tôi mấy vòng rồi mới bay trở về. Mọi người thật sự hân hoan và nhìn về hướng 2 chiếc tàu, bây giờ đã lớn hơn chấm đen rất nhiều.
Nhưng ?! Tại sao lại như vậy ???!!! Chiếc OV-10 thì đã mất hút từ lâu nhưng cả 2 chấm đen đang lớn dần bỗng trở nên nhỏ lại và cũng mất hút luôn. Con người lúc tuyệt vọng vẫn cố ráng chịu đựng. Tuy nhiên nếu đã cho một tia hy vọng rồi lại tắt mất thì tình trạng càng tồi tệ hơn. Chừng 2 giờ sau thì các người trong hầm tàu lại ni loạn vì có thêm nhiều người nằm xuống. Các chàng thanh niên lại một lần nữa phải xuống giải toả. Lại có thêm người tiếp tục bị “rớt” xuống biển. Không khí trên tàu thật buồn thảm, không ai nói một lời, chỉ còn tiếng máy tàu n lạch tạch. Lúc này trọng tải có lẽ bớt đi chút ít nhưng tàu vẫn chạy như rùa bò.

Khoảng 2 giờ chiều thì có một chiếc tàu chạy thật nhanh đến, tìm cách cặp vào thuyền chúng tôi. Đúng là hải tặc rồi ! Đàn bà và nhất là thiếu nữ thì lo cuống cuồng, có người lấy nước bùn trát vào mặt cho xấu đi. Tuy nhiên có một số thanh niên thì lại lạc quan, “ra sao thì ra” nhưng chỉ cần có thể xin được chút nước uống, không còn nhớ là đối với hải tặc thì đàn ông cũng không được tha. Cũng rất may cho chúng tôi, đám hải tặc chừng 5, 6 người, dùng thuyền nhỏ vừa nhảy lên thuyền chúng tôi thì đã vội nhảy trở về. Nhiều người cho là vì thấy thuyền chúng tôi đông quá nhưng theo tôi, vì ở trên tàu quen rồi chúng tôi không cảm thấy nhưng trên tàu chắc rất nặng mùi, kể cả mùi tử khí.

Đám hải tặc đành dùng dây kéo tàu chúng tôi đi, có lẽ đến một hoang đảo nào đó, thoáng mát và dễ hành sự hơn. Đi được chừng khoảng một giờ thì tàu dừng lại, họ bắt đầu mang nước và cơm ra rồi ngoắc chúng tôi sang. Khoảng cách giữa 2 tàu chỉ chừng 20 thước nhưng tôi không dám chắc là mình còn đủ sức để bơi qua được nên vẫn ở lại trên tàu. Một số thanh niên bơi sang và được cho ăn uống thoả thích. Một thanh niên người Hoa, sau khi ăn uống trở về cho biết là đã nói chuyện với các “ngư phủ” bên kia và họ cho biết là chúng tôi đã được tàu Mỹ cứu rồi. Chúng tôi bán tín bán nghi thì tàu Mỹ  đã xuất hiện. Lần này thì không còn chấm đen chấm đỏ gì hết mà chỉ trong thoáng chốc là một chiếc tàu khổng lồ đã thả neo cạnh thuyền chúng tôi. Một đám thủy thủ người Mỹ định dùng thuyền nhỏ để lên thuyền chúng tôi nhưng 2 anh thủy thủ đầu tiên vừa nhảy lên tàu thì vội nhảy trở lại ngay, thế mà vẫn ói ma. Vì vậy chúng tôi nghĩ đám hải tặc không phải sợ chúng tôi đông người, nhất là vì số đông vẫn còn nằm dưới hầm tàu nhưng vì không chịu ni mùi hôi thối ở trên tàu và nhờ đó mà chúng tôi khỏi nếm mùi hải tặc.


Nói cho đúng thì đám hải tặc này thật không may. Chúng tôi đã gặp tàu Mỹ trước nhưng vì phi công máy bay OV-10 cho biết tàu của chúng tôi còn chạy được nên không thể cứu, tuy nhiên họ vẫn theo dõi rất sát. Đến lúc bọn hải tặc tắt máy thuyền chúng tôi và kéo đi thì đã đủ lý do để cứu nên họ gọi điện ngay cho bọn này biết. Vì vậy đang từ là món mồi ngon, chúng tôi trở thành khách quý được hải tặc cho ăn uống no nê. Thật tình mà nói, không biết người khác thì sao chứ riêng tôi, nhờ một anh thanh niên mang về một chai nước, đã cẩn thận chỉ uống vào một ngụm thôi mà bụng quặn thắt, muốn ói nhưng không có gì để ói, đầu váng mắt hoa. Sau đó phải từ từ xoa nước lên môi mà thôi. Không biết có mấy người đủ sức để “ăn uống no nê”.

Sau khi cho thuyền chúng tôi cặp sát chiếc tàu chiến thì thang dây được thả xuống để chúng tôi leo lên. Lúc đó ông hạm trưởng đứng ra điều động qua tôi làm thông ngôn bất đắc dĩ. Ông yêu cầu tôi lên thuyền sau cùng. Trong lúc chờ đợi mọi người leo lên, tôi xuống hầm tàu xem lại còn sót ai không và cũng có ý muốn tìm xách hành lý của mình. Đúng như các anh thanh niên mô tả trước đây, dưới hầm tàu thật quá ngổn ngang dơ bẩn và nặng mùi tử khí, chỉ dám đi lướt qua, không thể ở lâu được. Tôi đếm được đúng 11 người còn nằm lại, không có can đảm thử xem họ có chết thật không, với lại thân nhân cũng đã không ngó ngàng tới, mình còn có thể làm gì ?

Khi tôi leo lên tàu Mỹ thì được hướng dẫn đến một phòng tắm dã chiến, áo quần đang mặc đều phải vất bỏ hết. Thật sự lúc đó tôi chỉ có một áo len cánh không biết của ai và một quần đùi dính đầy bùn . Tắm rửa xong họ phát một cái mền, chắc để tối này đắp nhưng hiện tại đó là thứ duy nhất tôi có nên đã quấn lại như một cái sarong để che thân. Nếu xem chiếc tàu như là một phần lãnh thổ của nước Mỹ thì có thể xem như tôi được tái sinh tại đây, trần truồng, không mang theo bất cứ hành trang gì.

Bước vào trong thì thấy người nằm la liệt, các bác sĩ và y tá trên tàu đang tận tình cứu cha. Không có việc gì làm nên tôi cũng phụ giúp trong việc thông dịch. Được một lát thì một vị sỹ quan đến gọi và dẫn tôi đến hông tàu. Ông Hạm trưởng đang đứng đó với mấy thủy thủ. Nhìn xuống thì thấy con tàu của chúng tôi đang lắc lư theo những đợt sóng khá lớn. Thật là kỳ diệu, suốt 4 ngày qua, chỉ thấy sóng lăn tăn chừng vài ba tấc nhưng bây giờ thì sóng cao hơn nhiều. Nếu chúng tôi vẫn còn trên thuyền thì không biết sẽ ra sao. Ông Hạm trưởng cho biết là ông đã đặt chất n để nhận chìm con tàu tuy nhiên ông muốn tôi nói lại cho mọi người biết là trên tàu vẫn còn 2 người, đã chết rồi nên xem như thủy táng theo con tàu luôn. Tôi giật mình:”Nhưng trước khi lên đây tôi đã đếm cả thảy là 11 người ?”. Ông Hạm trưởng cho biết là đã cho người xuống kiểm tra và  9 trong 11 người còn ở dưới thuyền chỉ bị ngất xỉu thôi và các bác sĩ đã cứu sống họ rồi. Tôi thấy lạnh xương sống, người như xây xẩm, điều mà tôi lo ngại thật sự đã xảy ra. Nếu tính theo tỷ lệ thì trong số 60,70 người đã được ném xuống biển, có thể có 40 đến 50 người chỉ là ngất xỉu mà thôi ! Nếu lúc chạm nước biển mát lạnh họ tỉnh dậy thì sao ? Nói cho cùng, tôi không có trách nhiệm gì về chuyện này cả nhưng đó vẫn là một ám ảnh đối với tôi trong nhiều năm.

Sau đó tôi còn nghe được câu chuyện ly kỳ của 2 anh em, người anh 15 tuổi và cô em 14 tuổi. Người anh mệt l nằm bất động và sắp sửa bị quẳng xuống biển. Cô em hoảng hốt và bỗng nhiên có sáng kiến là giựt bao nylon của một người bên cạnh đang ói mữa rồi rót vào miệng người anh. Anh này tỉnh dậy (không biết vì được uống nước hay vì chịu không nổi mùi hôi thối) và không bị quẳng xuống biển nữa.

Một ngày sau đó thì có 2 người nữa qua đời và tất cả chúng tôi cùng sỹ quan và binh sỹ trên tàu đã làm lễ thủy táng đàng hoàng. Đếm lại thì còn 262 người sống sót. Ngày hôm sau, phái đoàn Mỹ lên tận trên tàu để phỏng vấn và hầu hết đều được nhận đi định cư tại Mỹ. Đây là một trường hợp khá hy hữu vì thuyền nhân đã được nhận đi định cư trước khi vào trại tỵ nạn (Laem Sing, ở Thái Lan). Trong trại tỵ nạn, các nhóm thường lấy tên tàu của mình để phân biệt với các nhóm khác. Riêng tàu của chúng tôi không có tên và thường được biết đến như “tàu 262” tại vì trong trại không có tàu nào chứa đông người như vậy.

Tàu cứu sống chúng tôi là khu trục hạm (destroyer) chuyên dùng để phóng phi đạn (guided missile) thuộc Hạm đội 7 Thái bình Dương, có tên là USS Robison dài 133m, rộng 14m. Trên tàu có 2 giàn phóng phi đạn khổng lồ, 262 người chúng tôi nằm quanh một trong 2 giàn phóng mà rộng rãi thoải mái. Nhiệm vụ chính của khu trục hạm Robison là tuần tiu trên biển Đông. Tháng 12 năm 1980 là một trong những lần hiếm hoi tàu đến vịnh Thái Lan để tập trận với Hải quân Thái Lan.

Trên internet có đầy đủ chi tiết và lịch sử của chiếc tàu này kể cả 2 lần làm công tác nhân đạo, lần 1 cứu được 262 và lần 2 được 21 người. Tôi còn nhớ có một lần tôi đã nói với ông Hạm trưởng là tôi hiểu tại sao buổi sáng ông không cứu chúng tôi mà phải chờ đến buổi chiều. Tuy nhiên hậu quả là có thêm ít nhất từ 20 đến 30 người phải tử vong vì quá tuyệt vọng. Đọc lại lịch sử tàu Robison trong Wikipedia trong đoạn nói về lần cứu vớt 262 người cũng đã có hàm ý nói lên sự kiện đó.

Nhân đây, tôi xin thay mặt cho 262 thuyền nhân thành thật biết ơn Ông Hạm trưởng cùng thủy thủ đoàn, không những đã cứu vớt mà trong mấy ngày ở trên tàu đã đối xử với chúng tôi như những thượng khách.

Lê khắc Huy
Tháng 5, 2013
               
 

 

2 nhận xét:

  1. Cám ơn anh Hai (captain của đội bóng Laval năm nào) Lê Khắc Huy đã chia sẻ. Tôi đã rất xúc động khi đọc xong bài này. Tôi có nói với nhà tôi (cô Lan my house) là sau khi đọc bài này tôi thấy những kỷ niệm buồn vui hay khó khăn nho nhỏ trong bài tôi viết trở thành vô nghĩa. Bài anh Huy cho thấy nỗi đau và mất mát rất lớn của rất nhiều người trong chúng ta, đa số là những người Việt tị nạn ở hải ngoại. Chỉ khi nào nhà cầm quyền trong nước hiểu được những thảm cảnh mà họ, bên "thắng cuộc", đã gây ra cho những người cùng dòng máu, nhất là người dân miền Nam bên "thua cuộc", thì may ra có thể họ sẽ tìm những phương cách để chữa lành những vết thương đó. Cách hay nhất là mình phải tự lo cho mình để tự mình hóa giải được những khổ đau của chính mình. Bài viết nhẹ nhàng không lên án không trách móc của anh Huy cho thấy là anh đã chắc chắn chuyển hóa được nội tâm. Tuy nhiên, nói như người dân xứ Con Vịt Điên (Cana-dien), we can forgive but we won't forget...Mong gặp lại anh Hai Huy.

    Trả lờiXóa
  2. Duong Tâm Nghiêmlúc 15:44 2 tháng 8, 2013

    Anh Huy viết một bài rất hay, cảm động, nhưng cũng có nhiều đoạn vui nhẹ nhàng. Hồi xưa, lúc còn học Laval, nghe tiếng anh học giỏi, đậu bằng có mention, em tuy qua sau, nhưng cũng như mọi người đều rất nể phục anh. Nay đọc bài này, nhận thấy anh không phải chỉ là một người thông minh và có kiến thức cao, mà còn là một người có lý tưởng, sẵn sàng về nước đi lính (dù là sau đó được biệt phái về dạy học). Anh kể chuyện trên tàu vượt biên, người ta quăng những người có lẽ chưa chết xuống biển, vì họ không còn sức để phản ứng hay cử động, làm anh bị ám ảnh khá lâu. Điều này cho thấy anh còn có lòng nhân.
    Bài anh viết làm em liên tưỏng tới nhân vật Iohann Moritz của chuyện "Giờ thứ 25". Anh chàng này cũng như anh, vì hoàn cảnh, phải gặp "xui" hơn người ta: Những người về nước trước hay sau anh 6 tháng năm 1971 thì không thành sĩ quan, và không bị những ngày "học tập cải tạo" sau này. Còn anh bị "xui" nên phải bị đi tù. Rồi khi vượt biên bị bắt, những người dưới 20 tuổi hay trên 50 tuổi được thả ra, còn anh thì... cũng bị đi tù !!
    Em trích ra đây 1 đoạn nói về chuyện "Giờ thứ 25" của tác giả Virgil Gheorgiu trên Wikipedia để nói về hoàn cảnh anh chàng này, đọc chơi "cho vui":
    « De toute ma vie, je n'ai désiré que peu de choses : pouvoir travailler, avoir où m'abriter avec ma femme et mes enfants et avoir de quoi manger. C'est à cause de cela que vous m'avez arrêté ?
    Les Roumains ont envoyé le gendarme pour me réquisitionner – comme on réquisitionne les choses et les animaux. Je me suis laissé réquisitionner. Mes mains étaient vides et je ne pouvais lutter ni contre le roi ni contre le gendarme qui avait des fusils et des pistolets. Ils ont prétendu que je m'appelle Iacob et non Ion comme m'avait baptisé ma mère. Ils m'ont enfermé avec des juifs dans un camp entouré de barbelés, – comme pour le bétail – et m'ont obligé à faire des travaux forcés. Nous avons dû coucher comme le bétail avec tout le troupeau, nous avons dû manger avec tout le troupeau, boire le thé avec tout le troupeau et je m'attendais à être conduit à l'abattoir avec tout le troupeau. Les autres ont dû y aller. Moi je me suis évadé. C'est à cause de cela que vous m'avez arrêté ? Parce que je me suis évadé avant d'être conduit à l'abattoir ? Les Hongrois ont prétendu que je ne m'appelais pas Iacob mais Ion et ils m'ont arrêté parce que j'étais Roumain. Ils m'ont torturé et m'ont fait souffrir. Ensuite ils m'ont vendu aux Allemands. Les Allemands ont prétendu que je ne m'appelais ni Ion ni Iacob, mais Ianos et ils m'ont torturé à nouveau, parce que j'étais Hongrois. Puis un colonel est venu qui m'a dit que je ne m'appelais ni Iacob ni Iankel – mais Iohann – et il m'a fait soldat. D'abord il a mesuré ma tête, il a compté mes dents et mis mon sang dans des tubes en verre. Tout cela pour démontrer que j'ai un autre nom que celui dont m'a baptisé ma mère. C'est à cause de cela que vous m'avez arrêté ? Comme soldat, j'ai aidé des prisonniers français à s'évader de prison. C'est pour cela que vous m'avez arrêté ? Lorsque la guerre a pris fin et que j'ai cru que j'aurais, moi aussi, droit à la paix, les Américains sont venus et ils m'ont donné, comme à un seigneur, du chocolat et des aliments de chez eux. Puis, sans dire un mot, ils m'ont mis en prison. Ils m'ont envoyé dans quatorze camps. Comme les bandits les plus redoutables qu'ait jamais connus la terre. Et maintenant je veux moi aussi savoir : pourquoi. »
    Lần "trở về" này vui vẻ, chớ không giống như những lần "trở về" trong những chuyến vượt biên "thập tử nhất sinh", mà chỉ được Chị nói một cách thản nhiên "anh về rồi đó à?". Hy vọng kỳ này về Québec họp mặt, sẽ được bắt tay anh để tỏ lòng kính phục và ngưỡng mộ.

    Trả lờiXóa