Xuân Diệu (1916-1985)
Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu
sinh ngày 2-2-1916, quê gốc làng Trảo Nha, huyện Can Lộc,
tỉnh Hà Tĩnh
nhưng sinh tại Gò Bồi, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định. còn có bút danh là Trảo Nha.
Cha là ông Ngô Xuân Thọ, tú tài Hán
học, làm thầy giáo tại Bình Định. Mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.
Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn, học cha chữ nho, chữ quốc ngữ và cả chữ Pháp.
1927 học trung học ở Quy
Nhơn, lúc này Xuân Diệu làm thơ cổ thi và rất thích Tản Đà.
Ra Hà Nội học, đỗ tú tài
I năm 1936, tại trường Trung học bảo hộ (Trường Bưởi).
Vào Huế, học trường Khải
Định, đỗ tú tài II 1937. Tại đây Xuân Diệu gập Huy Cận đang học dưới hai lớp,
hai người kết bạn thâm giao, tới hết cuộc đời.
Bắt đầu làm thơ và gửi cho báo Phong
Hóa Ngày Nay.
Thế Lữ,người điều khiển tin Thơ và
Tin Văn Vắn thời đó, đã giới thiệu Xuân Diệu như sau: “Một tâm sự nồng nàn mà
kín đáo, một linh hồn rạng rỡ mà say mê, đằm thắm hiện ra ở trong những điệu
thơ êm dịu mà ái ân… của tấm lòng yêu
thấm thía nhưng rụt rè… gợi cho ta thấy những hình ảnh, những tư tưởng bát ngát
và tươi đẹp không ngờ”.
Trong khi đó, thanh niên Việt Nam
ngẩn ngơ trước cái xôn xao nồng thắm của những câu thơ chưa bao giờ được nghe:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho
màu đừng phai nhạt
Tôi
muốn buộc gió lại
Cho
hương đừng bay đi.
Hỡi xuân hồng, ta muốn
cắn vào ngươi!
(Vội Vàng)
Cũng như những cái tinh tế, thoảng
nhẹ mà mong manh sâu kín của tâm hồn thi sĩ:
Hôm
nay trời nhẹ lên cao
Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn…
... Không
gian như có giây tơ
Bước
đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
Êm
êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng
không sao cả, hiu hiu khẽ buồn.
(Chiều)
Và tình yêu trong thơ Xuân Diệu, sao
mà nồng ấm, tha thiết:
Tôi yêu từ
khi chưa có tuổi…
để tới:
Thây kệ thiên đường với
địa ngục
Không hề mặc cả, họ yêu
nhau
(Tình
Trai)
Nhưng, có lạ không kìa, những người
tình nhân đang gần mà lạc lõng:
Trăng sáng,
trăng xa, trăng rộng quá
Hai người,
nhưng chẳng hết bơ vơ.
(Trăng)
1938 Thi sĩ được Tự Lực Văn Đoàn mời
ra Hà Nội làm việc, và cuối năm đó ông trở thành viên thứ bẩy của Văn Đoàn.
Mùa đông 1938, cuốn Thơ
Thơ ra mắt, xuất bản bởi Đời Nay, tựa của Thế Lữ và trình bầy bởi họa sĩ Lương
Xuân Nhị, đã được tiếp đón rất nồng hậu, tuy nhiên vẫn còn nhiểu người dị ứng
với lối diễn tả quá mới của Xuân Diệu, không thấy rằng khi ý tưởng dồn dập sôi
nổi quá thì cấu trúc của câu thơ phải bị sô lệch đi …
Lúc này Xuân Diệu dậy
học tại trường tư thục nổi tiếng Thăng Long, và Huy Cận học trường Canh Nông
Năm 1939, Xuân Diệu cho
xuất bản Phấn Thông Vàng, trong bài Tựa thi sĩ viết: “…Ở đây chỉ có một ít đời
và rất nhiều tâm hồn, hợp lại thành bao nhiêu nghĩ ngợi bâng khuâng, không cốt
để giải trí ngưòi ta, mà trái lại để xui trí người thêm bận vẩn vơ, lưởng vưởng….
vì cảnh ngoài cảm xúc tới…họ chỉ chép những vang động của lòng mình…”
1940 Xuân Diệu có cử nhân Luật, thi
vào làm tham tá thương chánh Nhà Đoan ở Mỹ Tho (Tiền Giang). Tới 1943 Huy Cận tốt nghiệp kỹ sư Canh
Nông. Xuân Diệu từ chức về Hà Nội
ở hẳn với Huy Cận.
Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của
mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, "nhà
thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" (Hoài Thanh), "ông hoàng của thơ
tình".
Tác phẩm tiêu biểu của ông cho đến
1945: Thơ Thơ
(1938),
Gửi Hương Cho Gió (1945), truyện ngắn
Phấn Thông Vàng (1939), Trường Ca (1945).
Huy Cận đã viết về thơ
Xuân Diệu như sau:
“Hai tập Thơ Thơ
và Gửi Hương Cho Gió
được giới văn học xem như là hai kiệt tác của ông ca ngợi tình yêu và qua các
chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống, niềm vui và đam mê sống. Và ca ngợi
tình yêu thì làm sao mà không ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi thiên nhiên
là tổ ấm và cái nôi của tình yêu. Và Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc đến đau đớn nỗi
thời gian trôi chảy, sự mong manh của đời người cũng như lòng khát khao vĩnh
cửu, tất cả đã được diễn tả bằng những câu thơ xúc động, có khi đậm đà triết lý
nhân sinh”. (Huy Cận,
tháng 4 năm 2000).
Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài
thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều
bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.
Về đời tư, Xuân Diệu đã lập gia đình
với nghệ sĩ Bạch Diệp, nhưng chỉ sáu tháng sau, hai người li dị. Ông mất ngày 2
tháng 2 năm 1985 tại Hà Nội.
Xuân Diệu, Ngô Thị Xuân Như, Huy Cận |
Xuân Diệu, Huy Cận thăm Thế Lữ 1985 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét