Phong Hóa và Ngày Nay là hai tuần báo xuất hiện ở Hà
Nội từ năm 1932 tới năm 1940, dưới chế độ Bảo Hộ, thuộc Pháp. Thoạt đầu tuần
báo Phong Hóa do ông Phạm Hữu Ninh làm chủ, đã ra 13 số báo không có độc giả,
sắp sửa phải đình bản (Khái Hưng và Nhất Linh có viết và vẽ cho tờ báo này dưới
tên Trần Khánh Giư và Đông Sơn). Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã mua lại và làm
chủ bút nhưng vẫn giữ trên mặt báo tên ông Phạm Hữu Ninh, Gérant và ông Nguyễn
Xuân Mai, Directeur Politique. Ông cùng một nhóm anh em bạn hữu gồm có Khái
Hưng Trần Khánh Giư, Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Tứ Ly Nguyễn Tường Long, Thạch Lam
Nguyễn Tường Lân, tạo thành một ban biên tập hoàn toàn mới.
Bắt đầu từ ngày 22/09/1932, Phong Hóa số 14 ra tám
trang khổ lớn, trở thành tờ báo trào phúng đầu tiên của nước ta. Mục đích của
báo được quảng bá lần đầu trong Phong Hóa số 13 là:
“Bàn một cách vui về các vấn đề cần thiết:Xã hội, chính trị, kinh tế, nói rõ về hiện tình trong nước…”
Đó chính là sự thể hiện tinh thần dân chủ và bình đẳng
trong tư tưởng, văn chương, báo chí. Sau này tờ báo thực sự đã nổi bật ở
tính thời sự và giọng châm biếm.
Năm 1933, Phong Hóa có thêm Thế Lữ Nguyễn đình Lễ, một
nhà thơ, nhà văn mới.
Tới giữa năm 1934, Tự Lực Văn Đoàn được thành lập với
sáu thành viên: Nhất Linh, Tứ Ly (Hoàng Đạo), Thạch Lam, Khái Hưng, Tú Mỡ và
Thế Lữ. Phong Hóa số 87, 1934 viết:
Sau này Tự Lực Văn Đoàn có thêm thành viên thứ bẩy là
thi sĩ Xuân Diệu.
Các thành viên Tự Lực Văn Đoàn với phong cách viết khác
nhau, nhưng đều xử dụng một loại văn mới mẻ, giản dị nhẹ nhàng dễ đọc, trong
những tác phẩm có nội dung mới, súc tích, lý thú, hợp khẩu vị dân chúng, đã
nhanh chóng thu hút độc giả. Văn Đoàn đã thực sự cải tiến cách viết chữ Quốc
Ngữ, giữa lúc lối văn biền ngẫu sáo rỗng vẫn còn thống lĩnh văn chương Việt
Nam, với quá nhiều từ Hán - Việt, và chứng tỏ rằng chữ viết mới có đủ khả năng diễn
tả tất cả mọi tình huống của cuộc đời. Các thành viên Tự Lực Văn Đoàn mỗi người
đều tự tạo ra một sự nghiệp văn chương lừng lẫy trên các báo Phong Hóa và Ngày
Nay, họ được ca tụng là những văn hào, thi bá xứng đáng của dân Việt.
Văn hào Nhất Linh, người cầm đầu, hoàn
thành một kho tàng văn học đồ sộ, sáng chói, đồng thời điều khiển văn đoàn rất
thành công. Là một thủ lĩnh văn chương có biệt tài, Nhất Linh nhận xét, sử dụng
tài năng, sở trường của các tác giả rất bén nhậy, sắc sảo. Ta có thể đọc được
ít bài trên Phong Hóa và Ngày Nay như: “Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng
thơ mới” phê bình Thế Lữ vào năm 1933, khi nhà thơ chưa là thành viên của báo,
và nhiều bài viết cua Thế Lữ còn ở trong dạng bản thảo (1). Hay bài công bố
giải khuyến khích về thi ca Tự Lực Văn Đoàn năm 1939: nữ sĩ Anh Thơ, và thi sĩ
Tế Hanh (2).
Nhất Linh là người có “cặp mắt xanh”, sớm nhìn ra từng
sở trường, sở đoản của anh em, nên tạo điều kiện giúp anh em tiến nhanh, tiến vững
trong nghề nghiệp. Cụ thể, Tú Mỡ là bạn thân của Nhất Linh, nhưng khi đọc bài
phóng sự của Tú Mỡ, Nhất Linh phê bình ngay: “Dở quá, anh nên chuyên về thơ
trào phúng, tốt hơn!”(3). Cho nên Tú Mỡ chỉ tập trung viết thơ trào phúng, phụ
trách chuyên mục Dòng Nước Ngược. Và thơ trào phúng của Tú Mỡ được nhiều
thế hệ yêu thích. (Lâu lâu Tú Mỡ cũng có một bài phóng sự vui!)
Có lần Thế Lữ kể lại (theo trí nhớ): Khi làm việc trong
tòa báo, ông phải lọc các bài gửi đăng, có lần thấy một bài dở đã loại ra.
Nhưng khi báo in, lại thấy bài đó xuất hiện! Hỏi ra, thì chính là Nhất Linh
nhặt lại, với lời bình: “Độc giả thích loại này!” Kiểm lại, đúng thật, bài đó
được nhiều lời khen của người đọc. Riêng với Thế Lữ, việc ông trở thành tác giả
viết truyện trinh thám là do Nhất Linh! Vì Nhất Linh đưa ý kiến: “Bây giờ là
lúc báo cần có truyện trinh thám để thay đổi món ăn, anh Thế Lữ viết được loại
này. Anh nên viết đi!”
Những phần chính của tờ báo là:
VĂN HỌC:
Các thành viên Tự Lực Văn Đoàn sáng tác rất nhiều tiểu
thuyết dài, ngắn với cách hành văn cũng như cấu trúc tác phẩm mới mẻ, phong
phú, đã thay đổi hẳn không khí văn học thời bấy giờ. Trong đó, nổi bật là tình
yêu trong trắng, lãng mạn, lý tưởng, và xung đột giữa cái mới và cái cũ... Đặc
biệt, những tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng về “luận đề cũ mới” làm sôi
sục xã hội thời đó. Nếu cuốn tiểu thuyết Hồn
bướm mơ tiên của Khái Hưng mở đầu cho sự đổi mới văn chương của nước nhà; Nửa chừng xuân cho người đọc thấy sự
xung đột giữa cũ và mới trong xã hội, thì cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh lên đến đỉnh điểm của cuộc xung đột. Nhan
đề truyện đã được nhắc lại như một tuyên ngôn: “Đoạn Tuyệt với cái cũ!”
Đâu đâu trong nước ta cũng thấy nói tới, tranh luận tới truyện này, ngay cả
diễn kịch Đoạn Tuyệt nữa!
Bên cạnh đó, Nhất Linh viết tiểu thuyết dài, ngắn, ngay
trước khi có báo Phong Hóa như Nho Phong và Người Quay Tơ. Những tiểu thuyết luận đề của ông, ngoài Đoạn
Tuyệt, cuốn Lạnh Lùng cũng gây nhiều tranh cãi và được độc giả ham thích. Sau đó
Nhất Linh chuyển sang viết truyện tâm lý như Bướm Trắng... Suốt đời ông, viết
văn bao giờ cũng là một niềm vui tri thức, trân trọng và say mê. Sau này ông viết
cuốn Xóm Cầu Mới, viết đi viết lại nhiều lần, mà lần nào cũng long trọng, cũng đắm
đuối như “thuở ban đầu”. Với số lượng tác phẩm to lớn, với văn phong trong sáng,
đẹp đẽ, với tri thức chín chắn trong văn học, Nhất Linh là một văn hào lỗi lạc
của chúng ta.
Về Khái Hưng, khi về làm việc với Nhất Linh thì vụt
sáng lên như sao buổi sớm. Với vốn sống và kiến thức đông tây uyên thâm, Khái
Hưng là người kể chuyện rất có duyên, viết truyện rất thu hút, rất nhân bản, ẩn
tàng một ý muốn nâng cao dân trí, tìm lý tưởng cho thanh niên. Ông có tài viết
nhanh, viết dễ dàng, gần như số báo nào ông cũng có truyện dài, truyện ngắn,
kịch, hay truyện vui, phê bình văn học… Khối lượng tác phẩm của ông thật đồ sộ.
Đọc Phong Hóa và Ngày Nay, các bạn sẽ được thấy rất nhiều bài ông viết, chưa từng được in ra sách.
Khái Hưng là tác giả được ngưỡng mộ nhất thời đó, ông đáng mặt văn hào hàng đầu
của chúng ta. Ngoài ra, Khái Hưng còn là
tay vẽ ký họa rất khéo. Ông có nhiều bức ký họa trên báo Phong Hóa.
Bên cạnh, Thạch Lam là một cây viết kín đáo, kén người
đọc. Ông viết truyện tâm lý tình cảm thâm trầm giản dị, nhẹ nhàng mà thấm thía
tuyệt vời. Văn ông đi vào hồn người. Thạch Lam có một tấm lòng quê thật sâu xa.
Nguyễn Tuân gọi đó là: “(Ông)… vừa sống vừa lắng nghe chung quanh cùng là lắng
nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến, cả bên ngoài lẫn bên trong mình” (Tiểu
Luận và Chân Dung Văn Học, Tuyển Tập Nguyễn Tuân, trang 353, nhà xuất bản
Văn Học, 1982). Thạch Lam là một văn hào hàng đầu của Việt Nam về sự tinh tế.
Trong bài tựa cuốn Gió Đầu Mùa, Khái Hưng viết: “Thành thực, đó là đức
tính không có không được của nhà văn, ở Thạch Lam, sự thành thực lại trở nên sự
can đảm. Đọc nhiều đoạn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự thành thực
(nhất là trong truyện Ngày Mới) (4)…”. Ta hãy đọc quan niệm của chính
Thạch Lam về văn chương trong Lời Nói Đầu của tập truyện ngắn Gió Đầu
Mùa: “…Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc
sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và
đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối vừa
tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú.”
Nhiều bài trong Hà
Nội 36 phố phường của ông là những áng văn hay về Hà Nội được nhiều thế hệ sau
này nhắc đến và chắc sẽ được tiếp tục nhắc đến khi nhớ về Hà Nội một thời thanh
lịch. Thạch Lam viết nhiều thể loại kể cả phê bình văn học, mỹ thuật… Giữ chức
chủ bút báo Ngày Nay khá lâu, Thạch
Lam quán xuyến công việc một cách tốt đẹp, phát triển được đội ngũ cộng tác
viên hùng hậu, nhất là số lượng phát hành ngày một tăng. Đó cũng là cái tài của
chủ bút Thạch Lam.
Riêng Thế Lữ, ngoài thơ ca, là một cây viết rất cuốn hút,
văn phong khác lạ, lý thú, mạnh mẽ, sắc nét… với tinh thần rõ ràng khúc triết
và tài dàn xếp câu chuyện thật ly kỳ. Thế Lữ nổi tiếng nhất về những truyện
đường rừng như Vàng và Máu, Một Đêm Trăng,… truyện kinh dị như Bên
Đường Thiên Lôi, Cái Đầu Lâu… Ông còn nhiều loạt bài phóng sự vui như Lê
Ta Làm Báo, Lê Ta xuống Hải Phòng… nhiều truyện trinh thám, nhiều kịch bản,
cùng nhiều bài phê bình thơ, kịch... chưa ra sách. Thỉnh thoảng Lê Ta cũng có
ký họa đăng báo.
Nhìn chung, những sách truyện của Tự Lực Văn Đoàn đã
được nhiều thế hệ người đọc yêu thích, góp phần nâng cao dân trí, giúp cho câu
văn tiếng Việt rõ ràng, mềm mại, giúp cho nhiều thế hệ người đọc yêu quê hương,
đất nước... Hơn nửa thế kỷ qua đi, nhiều người đã bàn về những tác phẩm của Tự
Lực Văn Đoàn. Dù thích hay không thích, các nhà nghiên cứu văn học đều thừa
nhận có một dòng văn chương Tự Lực
Văn Đoàn. Đây là văn đoàn đầu tiên của nước nhà và cũng là văn đoàn góp phần to
lớn làm nên cuộc cách mạng văn học trong thế kỷ XX.
BÁO CHÍ:
Ngoài tư cách nhà văn, các thành viên Tự Lực Văn Đoàn
còn là những nhà báo. Họ đi lấy tin, tường thuật, bút chiến…,bằng dọng hài hước
họ diễu cợt các thói xấu của giới quan lại, trưởng giả… Trong các tiết mục như:
Câu chuyện hàng tuần, Điểm thời sự, Đọc sách, Trả lời bạn đọc, Ngày
Nay nói chuyện… mọi thành viên đều viết, và thường được bạn đọc phục vì tài
và nể vì tư cách. (Ngay cả những bức tranh khôi hài Lý Toét nhiều khi
cũng được tạo thành do sự góp ý của nhiều thành viên và họa sĩ. Những bức tranh
này thường không ký tên tác giả).
Người viết những bài lý luận thời sự về xã hội, chính
trị, kinh tế… điều khiển linh hồn tờ báo là Tứ Ly Hoàng Đạo. Qua các loạt bài
như: Từ Nhỏ Đến Lớn, về người, Từ Cao Đến Thấp, về việc, Bàn
Ngang, nói ngược mà hiểu ra xuôi, cũng như loạt bài Hậu Tây Du Ký, Đi Thăm Khổng Tử… Hoàng Đạo không đả phá thẳng vào Mẫu Quốc và chế độ thuộc địa mà
bắt đầu tấn công vào các quan lại người Việt bằng cách viết văn châm biếm và chế diễu. Thêm vào đó, trên cả hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay, ông đã viết ra
một khối lượng tài liệu rất lớn về pháp luật, về quyền lợi cũng như nghĩa vụ
người công dân, như: Trước Vành Móng Ngựa, Công Dân Giáo Dục, Có Cứng
Mới Đứng Đầu Gió..…giúp người dân hiểu luật pháp, không sợ bị đe dọa, bị
bắt nạt. Cũng như loạt bài Bùn Lầy Nước Đọng, viết về thực tế khốn cùng của
nông dân VN, chứng tỏ Tự Lực Văn Đoàn rất quan tâm đến xã hội,
đến việc “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh…” như tinh thần của nhà ái
quốc Phan Chu Trinh đã bàn đến hồi đầu thế kỷ XX. Sau này, rõ ràng nhất
là Thuộc Địa Ký Ước, đã phân tích chế độ thuộc địa và những biện pháp
cai trị của thực dân Pháp áp dụng ở nước ta.
Những phóng sự về mặt trái của xã hội, do Trọng Lang, cây
bút phóng sự sắc nét lúc bấy giờ, phụ trách.
Khi báo Phong hóa bắt đầu năm 1932, đa số những người
trong tòa soạn còn rất trẻ. Nhất Linh mới có 26 tuổi, Hoàng Đạo 25, Thế Lữ 25,
Thạch Lam 22, Tô Ngọc Vân 26, Nguyễn Gia Trí 24, Lemur Nguyễn Cát Tường 20. Ta
thấy trong nội bộ tòa báo, các đoàn viên đối xử với nhau thật thân ái, vui vẻ hay
đùa rỡn, kết nên những tình bạn xâu xa, bền vững. Bà Khái Hưng nhận xét vui
rằng chồng mình mê các bạn Tự Lực Văn Đoàn như…mê gái! (theo Ba Tôi,
Trần Khánh Triệu). Thế Lữ cũng nói: “ Không có báo Phong Hóa, Ngày Nay,
không có bạn bè Tự Lực, không có bạn thơ văn ngày ấy ăn ở với nhau như bát nước
đầy, sẵn lòng yêu tài, mến đức của nhau… thì không có Thế Lữ”. Sau này từ
những năm sau 1946 đến khi mất, Thế Lữ và Tú Mỡ vẫn là đôi bạn chí thiết. Và
mấy chục năm sau, ngay cả khi các thành viên đã khuất núi, các bà Nhất Linh,
Cát Tường, Gia Trí … vẫn thăm viếng nhau, các con cháu dù ở xa, dù chưa biết
nhau, khi gập lại vẫn có tình thân như anh em trong nhà.
Chúng ta có thể ghé mắt vào tòa soạn báo Phong Hóa, xem
một buổi làm việc chung, qua ngòi bút của Thế Lữ trong bài Phóng Bút của Lê
Ta đăng năm 1935 trên Phong Hóa số 154 (5). Tú Mỡ sau này cũng kể lại cung
cách làm việc chung của nhóm Tự Lực rất vui. Trong cuốn sách Tiếng Cười có
đoạn nói về cuộc họp tối thứ bẩy trên căn gác ấm cúng số 80 đường Quan Thánh: “Anh
em ngồi chầu ngọn lửa ấm áp, tán chuyện thời sự, nảy ra đề tài viết bài cho số
báo mới… Dạo Khái Hưng và Nhất Linh viết chung truyện dài Đời Mưa Gió,
hai anh bàn nhau kỳ này nên cho hai nhân vật chính (Tuyết và Chương) đi
đâu, làm việc gì, rồi đột nhiên trái chứng trái khoáy, mỗi kỳ mỗi anh thay nhau
chấp bút. Công việc sáng tác tập thể của các anh là như vậy”(6)
Chắc có độc giả còn nhớ bức tranh Trăng Xưa của
Khái Hưng? Nguyên là: sau khi tiễn Nhất
Linh thoát ra nước ngoài vì chính trị, Khái Hưng quay về vẽ bức tranh tả nỗi
buồn nhớ bạn. Thi sĩ Huyền Kiêu viết bài thơ cảm khái Tương Biệt Dạ bên
bức tranh, xin trích ra đây vài câu:
THƠ MỚI:
Hai báo Phong
Hóa và Ngày Nay đã cống hiến cho người đọc những vần thơ mới, ngay từ khi Thơ
Mới bắt đầu hé nở, khởi đầu bằng bài “Tình Già” của Phan Khôi. Sau đó, Thế Lữ
bước lên vững vàng, ngời sáng khi sáng tác những bài thơ phong cách hoàn toàn
khác lạ, từ lối dùng chữ, đến âm điệu, đến ý tưởng,… làm ngây ngất người đọc.
Thi sĩ được Nhất Linh công nhận chất sáng tạo mới, trong bài giới thiệu năm
1933 (1). Sau khi tập Mấy Vần Thơ của Thế Lữ ra đời, địa vị thơ mới nổi
bật. Danh tiếng của Thế Lữ nổi vững vàng như là người khởi đầu cho dòng thơ
mới. Trên báo ông bắt đầu khám phá, giới thiệu các thi sĩ trẻ:
Mở đầu là Xuân Diệu. Sự xuất hiện những bài thơ mới của thi si trẻ này trên báo Phong Hoá
và Ngày Nay lập tức đã làm mê hoặc người đọc: Những bài thơ tràn ngập tình yêu tuổi trẻ chưa
bao giờ say đắm đến thế, những rung động tinh tế rất riêng của thi sĩ, viết ra
bằng những văn thơ xô lệch cả ngôn ngữ, những tiếng thơ lạ lùng mới tinh đó làm
xôn xao tâm hồn người đọc, ngơ ngẩn cả làng thơ ... Thế rồi, mặc cho những người
còn dị ứng với dọng văn khác lạ nhưng Xuân Diệu vẫn được vinh danh là : Ông hoàng
của Thơ mới, là người thi sĩ mới nhất
trong những thi sĩ mới (Hoài Thanh Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam), và sau đó ông
mau chóng trở nên thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn.
Rồi đến lượt Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn
Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Tế Hanh... đã có thơ đăng trên Ngày Nay, được
Ngày Nay phê bình, giới thiệu, khuyến khích, hoặc được Giải Thưởng Thơ của Tự Lực Văn Đoàn.
Họ chính là những người đã góp công gây dựng cả một thời đại thi ca Việt Nam.
Những chuyên mục như Tin Thơ, Tin Văn Vắn do Thế Lữ phụ
trách trên Phong Hóa và Ngày Nay là những bài viết bàn về thơ, chỉ dẫn cách làm
thơ, thưởng thức thơ và phê bình thơ rất sắc sảo… được các bạn yêu thơ đón đọc
hào hứng, sôi nổi.
Thế Lữ còn được các thi sĩ trẻ rất phục về việc sửa thơ
dùm. Hai lần sửa nổi tiếng trên báo Ngày Nay là :
1-
Câu
thơ: Một tối
vòm trời chẳng gợn mây của Xuân Diệu, bài Mưa Đêm, được Thế Lữ sửa thành: Một
tối bầu trời đắm sắc mây.
2- Câu thơ: Trăng nằm sóng sượt trên cành liễu, bài Bẽn Lẽn của Hàn Mạc Tử,
được Thế Lữ sửa thành: Trăng
nằm sóng soải trên cành liễu.
Tự Lực Văn Đoàn
cũng không quên hồn của
cổ thi, nên đã mời Tản Đà về, dành chỗ trên báo cho thi sĩ dịch Đường thi
trong nhiều năm cuối đời. Thêm nữa báo vẫn đều đều đưa ra những trò chơi văn
chương cổ điển như “Câu Đối” dưới dạng thi đua “Đối” làm điên đầu bao nhiêu
người đọc!
Phong Hóa và Ngày Nay mỗi
ngày một nổi tiếng, số phát hành tăng rất nhanh, hoàn toàn không có đối thủ
trong làng báo lúc bấy giờ. Họ tập trung chung lo tờ báo, “anh em quyết tâm đem
hết tài lực làm việc quên mình, không vụ lợi. Bốn anh rường cột trong tòa soạn
(anh Tam, anh Long, anh Giư, anh Thế Lữ) tình nguyện chỉ lĩnh mỗi tháng 50 đồng
đủ sống, để dành tiền lãi làm vốn cho báo phát triển” (Tiếng cười Tú Mỡ, nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1993, trang 27). Và họ
đã làm được điều họ muốn: “Xuất thân từ những bàn tay trắng, đoàn đã có một số
vốn khá to, đủ để xây dựng một nhà in riêng, để có thể từ nay:
“Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà”
Đó là câu đối báo đưa ra để thách
đối, đồng thời để báo tin mừng với bạn đọc. Vế đối đưa ra quá hiểm hóc khó có
ai đối được, nhưng bạn của Ngày Nay
vui mừng” (Tiếng cười Tú Mỡ, sđd, trg
36). Tự Lực Văn Đoàn còn thành lập nhà xuất bản Đời Nay để in tác phẩm của anh
em trong văn đoàn và của một số cộng tác viên. Chỉ sau một thời gian ngắn, Đời
Nay cũng nổi tiếng không thua gì báo Phong Hóa và Ngày Nay. Đời Nay cũng là
nhà xuất bản đầu tiên của nước ta in loại sách “mỹ thuật”, cũng như báo Phong
Hóa và Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn là hai tờ báo đầu tiên trong nước có số đặc
biệt cho ngày Tết với tranh bìa in bốn màu.
Báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn còn bao
trùm nhiều lãnh vực khác biệt:
MỸ THUẬT:
Đông Sơn Nhất Linh đỗ đầu cuộc thi tuyển nhưng chỉ học
một năm tại trường Mỹ Thuật Đông Dương. Khi bắt đầu Phong Hóa, ông phụ trách
trang trí, vẽ minh họa cho toàn thể báo nhà, về sau, chỉ còn minh họa riêng các
truyện mình viết thôi. Người đọc không thể quên những nét vẽ của ông trong
những bức tranh các cô gái dịu dàng, những cây hoàng lan cao lớn đưa cành lá
xậm mầu, xòa xuống chơi vơi trong đêm vắng, như đong đưa …
Thêm nữa, nhiều người trong ban biên tập cũng rất yêu
hội họa, đôi khi trong Phong Hóa và Ngày Nay ta thấy tranh Khái Hưng, tranh
Hoàng Đạo …. Rồi nhiều truyện bằng tranh do Cát Tường vẽ, Thế Lữ viết lời, cũng
được xuất hiện.
Những năm sau Phong Hóa và Ngày Nay luôn luôn có họa sĩ
nhà nghề trình bầy báo, vẽ tranh. Những họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam như:
Nguyễn Giá Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Trần Bình Lộc, Nguyễn Tường Lân
(họa sĩ này có tên trùng với Thạch Lam), Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung...
Hàng năm, trên Phong Hóa và Ngày Nay đều có bài bình
luận tranh của những phòng triển lãm ở Hà Nội, do Nguyễn Đỗ Cung, Tô Tử Tô Ngọc
Vân, Lemur Nguyễn Cát Tường, Thạch Lam… viết. Điều này đã nâng cao óc thẩm mỹ,
lòng yêu vẻ đẹp cho người đọc. Ngoài ra, báo Phong Hóa và Ngày Nay dùng nhiều
tranh vẽ rất có giá trị của các họa sĩ tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Đông Dương
làm bìa báo.
Được đặc biệt chú ý là:
Tranh bìa báo Xuân Ngày Nay số 46, 1937 của họa sĩ
Nguyễn Gia Trí,
Tranh bìa báo Xuân Ngày Nay số 198, 1940 của họa sĩ Tô
Ngọc Vân
Hiện nay chúng là những bức tranh quý, được tìm mua tại
những cuộc đấu giá quốc tế (dù chỉ là tranh in chụp lại!)…
Cũng nhờ tòa báo luôn tổ chức những cuộc thi có thưởng,
như những cuộc thi vẽ tranh khôi hài và tranh Lý Toét... đã lôi cuốn được rất
nhiều họa sĩ bên ngoài tòa soạn tham dự vào việc vẽ tranh cho Phong Hóa, như
Mạnh Quỳnh, Trần An, Ngym, Dlan,… Ngay cả Bút Sơn người sáng tác ra Xã Xệ, là
một độc giả ở tận Saigon, gửi tranh Xã Xệ đầu tiên tới tòa soạn năm 1934 (7).
Việc mở rộng vòng tay trước số đông người viết, người
vẽ, người tham dự các kỳ thi, khiến tờ báo càng ngày càng được yêu mến, nội
dung càng trở nên súc tích. Có lúc số báo phát hành đã lên tới hàng vạn! Một
con số mà hầu hết những tờ báo tiếng cùng thời đều mơ ước.
Cần nhắc lại là trên tờ báo trào phúng, chính Nhất Linh Đông Sơn sáng tác ra Lý
Toét. Tranh đầu tiên “Lý Toét ra tỉnh” của ông (8) đăng trên Phong Hóa vào
năm 1933. Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh, Ba Ếch là những nhân vật hoạt kê sáng giá
của cả một thời đại, dùng để chế diễu, đùa cợt những thói hư tật xấu của dân
ta, để tự biết mà sửa đổi. Và đồng thời cũng khơi dậy lòng thương người dân quê
nghèo khó, đang chịu trăm bề khốn khổ, không được học hành hiểu biết, nên chỉ
biết mình khổ, nhẫn nại chịu khổ, chịu nhục, bị đè nén bóc lột dưới ách đô hộ
của thực dân Pháp và bọn cường hào nông thôn.
Cũng theo Nhất Linh, vào thời điểm đó, phía đàn ông đã
có nhiều người mặc Âu phục nhưng về phía phụ nữ thì y phục vẫn gần như cũ, với
áo quần luộm thuộm với mầu sắc tối tăm, vẫn đôi dép mũi cong với cái nón quai
thao cồng kềnh… tuy rằng khi ấy nơi thành phố đã bắt đầu có những biến chuyển
nhỏ về mầu sắc như phong trào “Quần Trắng Áo Lam” nhưng lối thiết kế không khác
xưa nhiều…
Rồi rất đột nhiên, báo Phong Hóa Mùa Xuân, số 85, 11
tháng 2, 1934, Nhất Linh cho xuất hiện mục “VẺ
ĐẸP riêng tặng các bà các cô”. Ông đã giao cho họa sĩ
Nguyễn Cát Tường làm cuộc cải tiến y phục phụ nữ. Người họa sĩ này vừa viết
bài, vừa vẽ kiểu… với đỉnh điểm là việc phân tách và trình bày những ưu khuyết
điểm của Y Phục Phụ Nữ đương thời, rồi sau đó, ông đưa ra những đề nghị đổi mới
cho được thích hợp với thời tiết, cho được thoải mái khi vận động làm máu huyết
lưu thông và tôn cao vẻ đẹp yêu kiều của người phụ nữ.
Đây là lần đầu tiên trên báo Phong Hóa và đặc san Đẹp,
do nhà xuất bản Đời Nay phát hành, Cát Tường đã giới thiệu đến độc giả lần lượt
những chiếc áo dài kiểu mới: có cổ, không cổ, có tay, không tay, những cái quần
ống loa, áo yếm… những bộ y phục mặc ở nhà hay trong phòng ngủ, khi dự tiệc hay
khi đi tắm biển và cho tới cả đôi giầy, đôi dép… của phụ nữ Việt đã được chính
họa sĩ tạo dáng và tạo kiểu…
Y phục phụ nữ tân thời Lemur đã được Cát
Tường lần lượt cho ra đời cả ngàn kiểu mẫu với nhiều mầu sắc khác nhau…
Cùng tham gia với họa sĩ Lemur Cát Tường, Đông Sơn
(Nhất Linh) cũng đưa ra mấy kiểu y phục thích hợp cho các em nữ sinh và y phục
cho phụ nữ thôn quê (theo ông thì phụ nữ thành thị dùng cũng được).
Tiếp tục qua báo Ngày Nay, Cát Tường viết những bài báo
về những đề tài làm đẹp cho phụ nữ như chuyện dồi phấn, thoa son, chọn mầu vải
cho hợp màu da và dáng người, tập thể dục, sống sao cho được khỏe và đẹp...
Cho tận tới nay Y phục phụ nữ Việt Nam vẫn còn theo dạng y phục Lemur
ít nhiều.
ÂM NHẠC:
Dưới chế độ thuộc địa Pháp, phong trào khiêu vũ, nghe
nhạc Pháp do các ca sĩ như Tino Rossi…hát làm say mê giới thanh niên chịu ảnh
hưởng văn hóa tây phương. Báo Ngày Nay đã khuyến khích các nhạc sĩ trẻ Việt Nam
viết Tân Nhạc, nhạc Việt, lời Việt. Trong bài: Cùng Các Nhạc Sĩ, Ngày Nay số
124, 1938 viết:“ Chúng tôi rất sung sướng thấy các bạn hoan nghênh cái ý đổi
mới âm nhạc Việt Nam…Ngày Nay đã nhận lấy cái vinh hạnh đầu tiên công bố những
tác phẩm ban đầu của nền âm nhạc đổi mới…”
Chúng ta thấy trên Ngày Nay: Hồn Xuân, nhạc Nguyễn Xuân Khoát,
lời Thế Lữ (10) Một Kiếp Hoa, Nguyễn Văn Cổn, nhạc Nguyễn văn Tuyên
(11), Xuân Yêu Đương, và Bản Đàn Xuân của Lê Thương (12 và 13)…Vậy mà, bên
cạnh đó, Tự Lực Văn Đoàn vẫn khuyến khích những khảo cứu văn hóa cổ, Nguyễn
Xuân Khoát có một tập bài về kỹ thuật, cách thưởng thức “Hát Ả Đào” (14)
đăng trên nhiều số báo Ngày Nay năm 1940.
KỊCH NGHỆ:
Cùng lúc đó phong trào kịch nói ra đời, Thế Lữ
là một kịch sĩ say mê, đầy tài năng, tự học, đã trở thành một trong những nhà
đạo diễn xuất sắc đầu tiên. Ông muốn xây dựng nền Kịch Nói riêng của Việt Nam.
Để mở đầu, thi sĩ vừa là Dạo Diễn vừa là diễn viên cho ban kịch Tinh Hoa của thi sĩ kiêm kịch tác gia
Đoàn Phú Tứ, và sau đó cho ban kịch Thế Lữ. Cuối cùng, Thế Lữ chịu trách nhiệm
chính trong đoàn kịch Anh Vũ của kiến trúc sư Võ Đức Diên. Trong đoàn kịch này,
Thế Lữ có dịp đi diễn nhiều nơi, vào tận các tỉnh miền Nam Trung Bộ. Từ đó cho
đến cuối đời, Thế Lữ tập trung cho sân khấu nói chung, Kịch Nói nói riêng.
Khái Hưng hưởng ứng tích cực, ông viết nhiều kịch ngắn, kịch dài, kịch thơ.
Những nhà viết kịch khác cũng xuất hiện, như Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Lê Đại
Thanh… rồi Vũ Trọng Can, Hoàng Cầm, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương… Cũng như các
kịch sĩ, đã bất chấp những lời chê bai, khinh rẻ “con hát” cổ xưa, các cô gái
con nhà danh giá của Hà Nội cổ kính cũng ra mặt đi diễn kịch… Đồng thời, những
vở kịch thơ như Tục Lụy, Kinh Kha,… trở nên nổi tiếng. Nhưng Kịch
Nói có sức thu hút mạnh mẽ bền vững hơn Kịch Thơ, các ban kịch Tinh Hoa, Thế
Lữ, Anh Vũ… trình diễn những vở Ông Ký Cóp, Ghen, Gái Không Chồng…
để lại những dấu ấn sâu sắc, dẫn đến cả phong trào phát triển Kịch Nói.
Trên báo Ngày Nay chúng ta đọc được những bài phê bình
kịch của Thạch Lam, Khái Hưng, Thế Lữ… Tự Lực Văn Đoàn đã có một giải thưởng
hàng năm dành riêng cho kịch, (bên cạch các giải thưởng cho tiểu thuyết, thơ,
…). Người được giải thưởng về kịch của Tự Lực Văn Đoàn đầu tiên là Vi Huyền Đắc.
Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi nhận xét về giao đoạn này
trong buổi nói chuyện ở Paris năm 1992:
“Những người gây dựng Kịch Nói Việt Nam đầu tiên là
những người trí thức, hiểu biết sâu sắc nền văn hoá Pháp, lại vừa là những nhà
văn, nhà thơ, nghệ sĩ hàng đầu của nước Việt Nam. Họ huy động vào cái nghệ
thuật mới mẻ này không chỉ có lòng say mê, bản năng thiên bẩm, và sự hiểu biết
về sân khấu, mà toàn bộ vốn Văn hoá của họ.
Họ tiếp xúc với sân khấu Pháp không chỉ như một ngành
nghệ thuật biệt lập, mà trong sự tiếp xúc tổng thể với cả một nền văn hoá. Đồng
thời bằng uy tín lớn lao đạt được ở các lĩnh vực văn học nghệ thuật khác, họ đã
góp công lớn thay đổi thân phận con hát hèn kém trong xã hội cũ, tạo ra nhân
phẩm mới cho người diễn viên. Không còn ai dám coi khinh nghề sân khấu khi có
những diễn viên tên là Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Tú Mỡ, Đoàn Phú Tứ, Nguyên Hồng,
Nguyễn Xuân Khoát…
Những người đầu góp công xây dựng nền kịch nói Việt
Nam, những nhân cách nghệ sĩ như họ không thể cam tâm với sự bắt chước. “
Tại các thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng… dân chúng bắt
đầu được thưởng thức những đêm kịch xứng đáng, có giá trị cao.
DÂN SINH:
Để cải cách đời sống quá nghèo khổ của đại đa số dân
chúng, Hội Ánh Sáng do Phong Hóa
và Ngày Nay bảo trợ ra đời năm 1937, thu hút được đông đảo các nhà hảo tâm.
Hai kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện và Hoàng Nhữ Tiếp thiết kế kiểu nhà ánh sáng,
xây dựng giúp cho người nghèo nhà mới nhiều không khí, hợp vệ sinh… để họ có
đời sống tốt đẹp hơn. Hội cũng tổ chức cứu trợ dân bị nạn, người nghèo khó,
thường trực, vận động thành lập Tự Lực Học Đoàn để xóa mù trong nhân
dân……
Đó là chưa nói đến những hô hào cải cách tận thâm sâu
trong tâm mọi người, trong “10 Điều Tâm Niệm” của Hoàng Đạo (15)…
Ngoài những tiết mục rõ ràng đó, giữa những trang báo,
những tin tức, những cảnh tượng trong những phiên tòa… người đọc thấy được trên
báo Phong Hóa và Ngày Nay một kho tàng bài viết và tư liệu rất lớn về lịch sử,
về đời sống dân chúng, về phong tục tập quán dân Việt những năm 1930… cũng như
những tố cáo về những điều cay đắng đau khổ người dân nghèo phải chịu như những
loại thuế lạ lùng: thuế thân, thuế rượu… thực dân quàng lên cổ người dân nô lệ.
Nhìn ra xã hội, ta thấy trong lúc đa số dân chúng nghèo
khổ cùng cực, mà nha phiến, cờ bạc, rượu chè… lại tự do! Ôi cái tự do làm những
việc chết người! Tranh khôi hài của Ngày Nay số 68, vẽ Lý Toét tay giơ chai
rượu, miệng ra một tuyên ngôn: “Tự do! Tự do! Chúng mình đã được tự do uống
rượu rồi còn gì nữa!” Nghe thật xót
xa!
Kính thưa quý vị độc giả,
Những điều trên chỉ là cái nhìn thô thiển của kẻ hậu
học trước cái núi báo gồm toàn thể 414 số báo Phong Hóa và Ngày Nay! Chúng tôi
xin ngừng lại phần giới thiệu tại đây, để các bạn tự đọc và tự khám phá, cùng
thưởng thức và nghiên cứu những số báo này.
Trở lại tòa báo Phong Hóa, mọi việc không được xuôi
chèo mát mái như mong muốn. Ngày 31/05/1935 báo Phong Hóa đã bị Thống sứ Bắc Kỳ
đình bản ba tháng. Và hơn một năm sau, sau số 190, ngày 5/6/1936, Phong Hóa bị
rút giấy phép, đóng cửa hẳn.
Đoán biết sẽ có ngày Phong Hóa bị chết, Nhất Linh đã
xin phép ra một tờ báo dự trữ thứ hai, do Nguyễn Tường Cẩm, anh của ông, một
công chức, đứng tên. Đó là tờ báo Ngày Nay hiền lành, chỉ chuyên về mỹ thuật,
văn chương. Báo Ngày Nay số 1 phát hành ngày 31/01/1935 (lúc đầu mỗi tháng ra 3
số, và báo cũng không xuất bản thường xuyên). Khi Phong Hóa bị đóng cửa, toàn
thể ban biên tập quay ra làm việc cho Ngày Nay, dần dần xây dựng cho tờ báo mới
phong độ của Phong Hóa cũ. Thật ra Tự Lực Văn Đoàn đã xây dựng cả hai báo, đã hiện đại hóa về cơ
bản cách diễn đạt và đặc biệt văn phong Việt Nam, thậm chí có thể nói cả
về cách suy nghĩ nữa.
Báo Ngày Nay ra tất cả được 224 số, với khá nhiều lỗ
hổng trắng hếu trên báo, đó là:”Kiểm duyệt bỏ!”. Tranh khôi hài Lý Toét, gọi
cái đầu trọc trống trơn, chỉ có một sợi tóc của Xã Xệ, là: “Kiểm duyệt bỏ”. Năm
1939 sau số 206, ngày 6 tháng 4, báo Ngày Nay tạm đình bản năm tuần, (Chúng tôi
không rõ lý do, vì lần này không có vẻ là một lần bị Kiểm Duyệt đóng cửa. Có
thể là do không có giấy in chăng?, Lúc này đang chiến tranh, việc chuyên chở
giấy đang có vấn đề lớn). Nhưng hơn một năm sau, sau số 224 ra ngày 07/09/1940,
báo Ngày Nay bị rút giấy phép, đóng cửa hẳn. Như bao nhiêu báo Việt Nam từ
trước tới lúc này, không ai biết đựơc nguyên nhân. Ngay cả hồ sơ mật vụ để ở
Aix en Provence cũng không thấy nói tới.
Không còn báo Ngày Nay, Tự Lực Văn Đoàn chỉ còn nhà in,
nhà xuất bản Đời Nay, hoạt động cầm chừng, tiếp tục in sách, thơ, tiểu
thuyết… Một vài cố gắng của Thạch Lam và Khái Hưng ra báo Chủ Nhật, rồi
cũng sớm bị rút giấy phép. Nhất Linh thoát ra hải ngoại… Năm 1942, Thạch Lam
mất vì bệnh lao.
Năm trước đó, tại Hà Nội, Hoàng Đạo, Khái Hưng và
Nguyễn Gia Trí, bị Pháp bắt, mấy tháng sau bị đưa lên Vụ Bản Hòa Bình,
1941-1943. Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bị tra tấn tàn nhẫn. Sau đó, Pháp đưa
Nguyễn Gia Trí đi an trí ở Thủ Đầu Một. Hoàng Đạo an trí ở Hà Nội.
Năm 1945, một số thành viên cũ như Khái Hưng, Hoàng
Đạo, Thế Lữ, Tú Mỡ. Thanh Tịnh, Nguyễn Tường Bách… tụ tập lại, cho ra tờ Ngày
Nay Kỷ Nguyên Mới, được 16 số thì đình bản vào ngày 18 tháng 8 năm 1945. Hiện
nay vì chưa sưu tầm và thẩm định những số báo này, nên chúng ta tạm coi như
Ngày Nay số 224, ngày 07 tháng 09 năm 1940, là số báo cuối cùng.
Nhìn kho tàng văn học vô cùng đồ sộ của các vị tiền
nhân nằm yên trong tủ sách bao nhiêu năm nay, nhiều người trong chúng tôi đã có
ước mơ: “Làm một điều gì đó”:
- Để làm sống lại một công trình văn hóa hàng đầu của
dân tộc.
- Để tất cả mọi người dân Việt có thể được đọc lại và
thưởng thức cái đẹp của văn chương thời chuyển đổi, một nền văn-chương-mới, một nền
mỹ-thuật-mới được khai phá và nở rộ.
- Và cũng
để nhìn lại bối cảnh chính trị, xã hội, kinh tế trong một giai đoạn lịch sử cận
đại đầy khó khăn, đầy xáo trộn của đất nước dưới chế độ thuộc địa Pháp.
Được khuyến khích, hưởng ứng từ rất nhiều bè bạn khắp
nơi cùng các Giáo sư và sinh viên tại các trường Đại Học trên thế giới, cho nên
dù biết rằng công trình hãy còn sơ sài, chắp vá… và chắc chắn có nhiều điều không
được hoàn hảo như mong muốn nhưng chúng tôi vẫn cố gắng “… Vác ngà voi.” và
mang tâm trí và sức lực ra thực hiện việc “SỐ HÓA” và phát hành sưu tập Phong Hóa và Ngày Nay: Một Di sản chung của tất cả mọi người dân Việt chúng ta.
Bởi vì, có lẽ chúng ta khó lòng tìm được một văn
đoàn tài giỏi, làm việc hăng say thể hiện sâu sắc tình yêu nước, yêu dân, yêu tiếng Việt, lại có đủ thời cơ thực
hiện được một công trình văn hóa xứng đáng
như thế nữa.
Phạm Thảo Nguyên và Nguyễn Trọng Hiền
__________________________________
1.
Nhất Linh, Nguyễn Thế Lữ, một người mới trong làng thơ
mới, PH số 54, 1933
2.
Giải thưởng Thơ Tự Lực Văn Đoàn 1939, Nhất Linh, NN số
209, 25/5/40
3.
Trích Hồi Ký của Tú Mỡ.
4.
Khái Hưng, Tựa Gió Đầu Mùa của Thạch Lam, NN số 89.
5.
Phóng bút của Lê Ta, PH số 154, 1935
6.
Tiếng
Cười, Tú Mỡ
7.
Tranh
Bút Sơn, bìa PH số 89, ngày 16/3/1934
8.
Lý
Toét ra tỉnh, Đông Sơn, PH số 48, 1933
9.
Lemur
Cát Tường, Vẻ đẹp riêng tặng các bà các cô: PH số 88 , 1934 và nhiều số kế
tiếp.
10.
Hồn
Xuân, Nguyễn xuân Khoát, lời Thế Lữ, NN số 149-10
11.
Một
Kiếp Hoa, Nguyễn văn Tuyên, NN số 122-11
12.
Xuân
Yêu Đương, Lê Thương, NN Xuân 1939, số
149,-11
13.
Bản
Đàn Xuân, Lê Thương, NN Xuân 1940, số 198,
14.
Hát Ả
Đào, NN số 214, và các số kế tiếp.
15.
10
Điều Tâm Niệm, Hoàng Đạo, NN số 25 và các số kế tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét