Thế Lữ (1907-1989)
Thế Lữ tên thật là Nguyễn Đình Lễ, hoặc Thứ Lễ.
Thứ Lễ nói lái thành Thế Lữ: Người khách phiêu du qua
trần thế.
Ông dùng bút hiệu Lê Ta, và cả Lê Tây khi viết văn
vui (bài Lê Tây viết cho Lê Ta, Ngay Nay,số 169 trang 15) . Các tên của ông lập
thành một vế câu đối, không ai đốI nổi.:
Thế Lữ làm quà hai thứ lễ :
Một quả Lê tây, một quảy Lê ta.
Thế Lữ sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907, tại Thái Hà Ấp,
Hà Nội.
Bố là Nguyễn Thuận, làm xếp ga đường săt, người làng
Phù Đổng, Tiên Du, Bắc Ninh, nay là Gia Lâm, Hà Nội. Mẹ quê Nam Định, theo đạo
Thiên chúa, lúc trẻ đi buôn tơ, vượt phép gia đình lấy ông xếp ga. Sau về Hải
Phòng làm nghề thuốc chữa bệnh trẻ con gia truyền, là bà Lang Thụ (Thụ là tên
con trai lớn).
Khi Thế Lữ còn nhỏ, cụ nội bắt về Lạng Sơn làm con
nuôi vợ cả của bố để mong bà cả chóng có con.
Suốt mười năm tuổi thơ, buồn nhớ mẹ ở xa và bố đi
vắng quanh năm, chú bé Lễ đã sống thấm đẫm không khí rừng núi tỉnh Lạng, đầy
cảm giác nhớ và sợ.
Tám tuổi học chữ nho, sợ đòn đi trốn, bị trói gánh về trường, nên
càng sợ.
Đến năm mười tuổi, anh chú Lễ bị bệnh mất. Mẹ chú bầy mưu đánh tháo
mang về Hải Phòng, từ đó mới được sống với mẹ.
Mẹ đưa lên nhà thờ làm “của lễ”, vì là con thứ, nên gọi là Thứ Lễ.
Thế Lữ bắt đầu đi học trường bảo hộ Pháp Việt, đến năm thứ ba trung
học thì xin nghỉ.
Năm 17 tuổi, lập gia đình với cô Nguyễn thị Khương, 19 tuổi, thuộc
họ đạo tỉnh Hà Nam, do mẹ hỏi cưới cho.( Ông bà được ba trai, một gái. Con trai
đầu là Nguyễn Đình Nghi, sau này được ông hướng dẫn, bồi đắp đã trở thành một
đạo diễn xuất sắc.) Thế Lữ là một người con rất có hiếu, trong thời gian làm
việc ở Hà Nội, tháng tháng đều về Hải Phòng thăm nom mẹ và vợ con.
1928-1932 học bàng thính tự do trường Mỹ thuật Hà Nội, một năm thì
bỏ. Quen nhiều bạn, chia sẻ nhau sách vở, văn chương…lập thành một salon văn
chương nhỏ, cùng tập viết văn quốc ngữ và dịch sách. Thế rồi vì bệnh lao, ông
về Hải Phòng nghỉ dưỡng ở vùng quê, vẫn chăm chú viết thơ, văn. Truyện Vàng và
Máu và nhiều bài thơ đầu tiên được viết trong thời kỳ này. Bắt đầu có bài đăng
báo, sách xuất bản.
1932 khỏi bệnh lao, về Hà Nội làm nhà in, ông gửi truyện ngắn, thơ
đến báo Phong Hóa, bài nào cũng được đăng. Thơ Thề Lữ bừng sáng rực rỡ với
phong cách hoàn toàn khác lạ, từ ngôn từ tới giai điệu, từ ý tưởng tới cách
chọn lọc chữ.
Nhất Linh công nhận chất sáng tạo mới của ông trong: “Nguyễn Thế Lữ,
một nhân vật mới trong làng thơ mới” trên báo Phong Hóa số54,1933.
Thế Lữ ra nhập ban biên tập Phong Hóa, và trở thành thành viên Tự
Lực Văn Đoàn 1934 ngay khi Nhất Linh thành lập. Ông hoạt động tích cực cùng các
bạn văn nghệ sĩ trên hai báo Phong Hóa, Ngày Nay từ 1932 tới 1940.
Thời kỳ 1934-1937, sau khi Mấy Vần Thơ ra đời, ông được người đời ưa
thích nhất trong số các nhà thơ mới.
Ông là người tiên phong trong việc xây dựng nền thơ mới, những câu
thơ của ông còn mãi trong lòng người yêu thơ như:
…Than ôi! thời
oanh liệt nay còn đâu! (Hổ Nhớ Rừng)
Hay: Rũ áo phong sương trên gác trọ
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang… (Giây Phút Trạnh Lòng)…
Hay Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên (Lời Than Thở Của Nàng Mỹ Thuật)
Những tiêu mục Tin Thơ, Tin Văn Vắn… của ông, là những bài phê bình
thơ, dậy cách làm thơ, thưởng thức thơ được thanh niên đón đọc sôi nổi.
Ông đã đỡ đầu nhiều nhà thơ trẻ như Xuân Diệu, Huy Cận…. Ngoài ra,
những truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện trinh thám … của ông cũng rất
được hâm mộ… vì chúng đột nhiên cùng ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam.
Thế Lữ còn là một người làm báo tài hoa. Với bút hiệu Lê Ta, (Lễ =Lê
ngã, với chữ nho ngã = Ta, một cách đùa với luật chiết tự, phân tích chữ.), ông
viết phóng sự, bút chiến, văn vui…rất thu hút, như loạt bài Lê Ta Làm Báo, Lê
Ta Xuống Hải Phòng…
Khi nền móng thơ mới thiết lập xong, rực rỡ hơn bao giờ hết với hàng loạt thi sĩ đầy tài năng: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, … mà nhiều thi nhân đã được chính ông khám phá và giới thiệu.
Thế Lữ quay sang kịch nói, tuy vẫn viết, vẫn làm báo Ngày Nay. Là
một nghệ sĩ say mê kịch, đầy tài năng, tự học trước một thể loại hoàn toàn mới,
ông đã trở thành một diễn viên kỳ đặc, một nhà dàn cảnh (đạo diễn) xuất sắc đầu
tiên. Ông muốn xây dựng nền kịch nói riêng của Việt Nam. Vì sân khấu bao giờ
cũng là bộ mặt văn hoá của một nước. Đó là lúc ông tìm thấy nơi dừng lại, sau
bao nhiêu tìm kiếm, khám phá, xây dựng, rồi để lại con đường cho người đi sau:
Có lẽ chỉ nơi sân khấu đầy biến đổi, những màn kịch phù du, như thật như
ảo… là phù hợp với tâm hồn vô trụ, lúc
nào cũng đi tìm cái mới của ông.
1937 Thế Lữ
dàn cảnh, huấn luyện diễn viên cho ban kịch Tinh Hoa của Đoàn Phú Tứ.
1938 Tại Hà
Nội, kết bạn cùng cô giáo Song Kim Phạm thị Nghĩa, một người say mê và giỏi
thiên bẩm về kịch, để phụng sự sân khấu nghệ thuật.
1940 Báo
Ngày Nay bị Pháp đóng cửa.
1942 Lập
ban kịch Thế Lữ, rất thành công, nhưng phải rã cánh vì những đòi hỏi của thực
dân Pháp lúc đó.
1943 Lập
ban kịch Anh Vũ cùng Vũ Đức Diên. Ông
phụ trách dàn cảnh và diễn kịch.
1945-1946 Lưu diễn miền Trung, tới Quy Nhơn vì chiến
tranh quay về Bắc.
1947 Tham
gia kháng chiến chống Pháp, viết kịch, dựng vở diễn liên tục.
1957 Chủ
tịch hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tới khi nghỉ hưu.
1977 Thế Lữ trở về sum họp với gia đình vợ con tại
TP HCM tới khi mất 3-6-1989, hưởng thọ 82 tuổi.
Tác phẩm của
ông, một phần lớn đã được nxb Đời Nay ấn hành trước 1945:
Mấy Vần Thơ
Vàng và Máu
Bên Đường Thiên Lôi
Mai Hương và Lê Phong
Lê Phong Phóng Viên
Gói Thuốc Lá
Gió Trăng Ngàn
Trại Bồ Tùng Linh…
Thoa (trong Giai Phẩm Đời Nay1944)
Sau 1945 có: Tay Đại Bợm, và nhiều truyện ngắn, sách
dịch, kịch bản…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét