Hiển thị các bài đăng có nhãn Tự lực văn đoàn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tự lực văn đoàn. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Thạch Lam

Thạch Lam (1910-1942)

Thạch Lam - Đinh Cường vẽ
Thạch Lam sinh ngày 7-7-1910, tại Thái Hà Ấp, gần Hà Nội. Bút hiệu khác: Việt Sinh, Thiện Sĩ. Là con thứ sáu trong gia đình, cha là Nguyễn Tường Nhu, mẹ là Lê thị Sâm. Quê nội làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê ngoại: huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Tên khai sinh hồi nhỏ là Nguyễn Tường Vinh, năm 15 tuổi làm giấy khai sinh lại, đổi tên là Nguyễn Tường Lân.

Năm lên bảy, cha qua đời. Thủa nhỏ học trường sơ học Cẩm Giàng tới 14 tuổi. 15 tuổi, đỗ bằng cơ thủy, xin tăng 4 tuổi để được vào học ban thành chung.

Đỗ bằng Thành Chung năm 16 tuổi, sau đó, vào học trường canh nông, được một năm, xin thôi, vào học trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất, quyết định nghỉ học để tham gia công việc làm báo với các anh.

Bà Nguyễn Thị Thế, chị ruột Thạch Lam, viết trong bài Người Em Thứ Sáu:
«Cha mẹ tôi định cư tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải-dương. Gia đình tôi gồm bẩy anh em, tôi là thứ năm và mình tôi là gái.

 Khi tôi tới tuổi hiểu biết, các anh trai lớn chia nhau đi học xa.

 Anh cả tôi học trường Bưởi ở Hà-nội, anh thứ ba, thứ tư học ở Hải-dương. Chỉ còn có tôi và hai em trai bé là học ở trường huyện.

 Người em út quá ít tuổi nên tôi thân với người em kế tiếp nhất, người em thứ sáu trong gia đình, kẻ sau này trở thành nhà văn Thạch-Lam.

 Thầy tôi chết sớm, mẹ tôi quanh năm buôn gạo khắp nơi xa ít khi ở nhà nên mọi công việc gia đình đều do bà nội rất hiền và rất thương các cháu lo liệu.

Mỗi lần bà đi chơi đâu vài ngày là mấy chị em tôi hết sức mong đợi vì khi trở về, bà tôi mang theo hàng thúng quà, không những phân phát cho các cháu nội ngoại mà còn cho cả trẻ con hàng xóm.

Nhưng thời kỳ tôi mong ngóng nhất là kỳ nghỉ hè vì lúc đó các anh tôi, người Hà-nội kẻ Hải-dương đều trở về quê.

Ngày bãi trường, hai chị em tôi dắt nhau ra ga từ sáng sớm. Đoàn tầu còn xa đã thấy anh hai đứng cửa toa bên rương quần áo.
Bao giờ tôi và Vinh cũng bở ngỡ và hơi sợ hãi lúc đầu vì sau một niên học, các anh thường lớn lên nhiều và có vẻ nghiêm trang như người lớn. (Vinh là tên thật của Thạch-Lam hồi bé vì thầy me tôi đặt tên các con theo một vế câu đối: Thụy Cẩm Tam Long Vinh Bách Thế. Tôi thứ năm nhưng mang tên Thế cho có vẻ con gái, do đó Thạch Lam thứ sáu mang tên Vinh. Mãi sau này, vì làm khai sinh lại để tăng tuổi đi thi nhẩy, Thạch Lam mới đổi tên là Lân và giữ tên này cho tới khi chết)». (Thế Kỷ 21 số 182, 2004).
Từ 1932, Thạch Lam bắt đầu làm báo, viết cho Phong Hoá.

Thạch Lam - Đinh Hùng vẽ
Về văn chương,  ông viết nhiều truyện ngắn và một truyện dài. Trong tác phẩm đầu tay Gió đầu mùa, văn Thạch Lam nhẹ nhàng bình lặng, phân tích tới phần sâu lắng của tâm lý con người. Với một văn phong lịch lãm và tinh tế, tuy được độc giả hoan nghênh, nhưng sách của ông kén người đọc, tương đối vẫn bán chậm nhất trong Tự Lực Văn Đoàn.

Ngoài ra Thạch Lam viết nhiều thể loại khác như: phê bình mỹ thuật, phê bình kịch nghệ, văn học, dịch thuật…

Người ta còn kể mãi chuyện chiếc bánh Madeleine mà Thạch Lam không biết là bánh , đã dịch nhầm. Khi được người đọc nhắc, lập tức ông đã thành thật xin lỗi độc giả trên báo… Điều này rất ít khi sẩy ra, đã chứng minh sự thành thật của một nhà văn hiếm có.

Những bài kể chuyện Nhà Thương, gần như phóng sự  của một nhà văn bệnh nhân, thật hay, tỉnh táo nhìn cuộc đời….

Tập Hà Nội 36 Phố Phường gồm những áng văn rất hay về Hà Nội, một cách sống rất văn hoá còn lại của chốn kinh kỳ xưa.

Trong khi tập tiểu luận Theo giòng gom lại những bài viết về văn học đã đăng báo của ông, chứng tỏ Thạch Lam có một quan niệm rõ ràng về sáng tác và một lý luận văn học chặt chẽ

Trong khoảng thời gian dài, khi các anh lớn đi làm chính trị, Thạch Lam làm chủ bút kiêm chủ nhiệm cho báo Ngày Nay, ông bao sân, nghĩa là viết tất cả những gì còn lại sau những bài của những tác giả khác, cho đầy tờ báo. Công việc này rất nặng nhọc, lo từ đầu tới cuối tờ báo.

Thạch Lam tuy trẻ nhưng đã đứng vững và làm cho báo Ngày Nay tăng tiến đều, cũng như tiếp tục nhận được sự ủng hộ của các cộng sự viên và độc giả. Điều này chứng tỏ khả năng và tư cách của ông.

Tháng 6 năm 1940, sau số 224, báo Ngày Nay bị đình bản do Pháp rút giấy phép.

Năm 1941, Pháp bắt đầu khủng bố nhóm Tự Lực Văn Đoàn vì những hoạt động chống đối chế độ thực dân.

Nhất Linh phải rời Việt Nam sang Trung Hoa.

Tại Hà Nội, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị Tây bắt sau đưa đi giam tại Vụ Bản, Hoà Bình, đến 1943 mới được giải về Hà Nội.

Khi tất cả các anh em khác phải tạm lánh ra ngoài Hà Nội, chỉ còn một mình Thạch Lam quản lý nhà xuất bản Đời Nay, và nhà in Ngày Nay. NXB đã cho in nhiều sách cũng như loạt Sách Hồng cho nhi đồng, để sinh lời.

Có lẽ vì công việc nặng nề, lại thêm bị bệnh phổi nên sức khỏe Thạch Lam ngày một sút kém, chỉ nửa năm phải ngưng công việc.

Thạch Lam mất ngày 28-6-1942 tại làng Yên Phụ cạnh Hồ Tây, Hà Nội, vì bệnh lao.

Nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét về Thạch Lam:
«Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc (…) Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh
Tác phẩm đã in:
Gió đầu mùa, truyện ngắn, Đời Nay, Hà nội, 1937.
Nắng trong vườn, truyện ngắn, Đời Nay, Hà nội, 1938.
Ngày mới, truyện dài, Đời Nay, Hà Nội, 1939.
Theo giòng, tiểu luận văn học, Đời Nay, Hà Nội, 1941
Sợi tóc, truyện ngắn, Đời Nay, Hà Nội, 1942.
Hà Nội băm sáu phố phường, Đời Nay, Hà Nội, 1943.

Truyện thiếu nhi in trong tủ sách Hồng, Đời Nay, Hà nội
Hạt Ngọc, bút hiệu Thạch Lam 1940
Quyển Sách, bút hiệu Thạch Lam 1940
Lên Chùa, bút hiệu Thiện Sĩ
Hai Chị Em (Hai Đứa Trẻ),  bút hiệu Thiện Sĩ  1938.

Tô Ngọc Vân

Tô Ngọc Vân (1906-1954)


Ngọc Vân là một họa sĩ nổi tiếng bậc nhất của Việt Nam, một trong những người đặt nền móng xây dựng nền hội hoạ Việt Nam thế kỉ 20.
Ông có bút danh là Tô TửÁi Mỹ. Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng 12, 1906 tại Hà Nội lớn lên tại đây, quê gốc tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Tô Ngọc Vân tốt nghiệp khóa II năm 1931, trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân đã có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao ở Pháp. Ông vẽ phong cảnh nhiều nơi đã đi qua như Phnom Penh, Bangkok, Huế...
Cùng Nguyễn Gia Trí, ông luân phiên làm việc với báo Phong HóaNgày Nay ca Tự Lực Văn Đoàn: vẽ tranh, minh họa.
Ông cũng viết bài phê bình các phòng tranh, và các bài về Mỹ thuật như Quan niệm về Mỹ Thuật: Coi Tranh (Ngày Nay số 196). Khen (Ngày Nay số 199)… 
Những tranh bìa báo Tết Ngày Nay của hai ông là những bức tuyệt đẹp, tới nay còn được bán đấu giá tại các buổi bán tranh quốc tế, cho dù đó chỉ là những bức tranh in lại.
Các họa sĩ tuy không ở trong Văn đoàn, nhưng cùng các thành viên trong tòa soạn Phong Hóa và Ngày Nay, họ họp thành một nhóm rất thân thiết và gắn bó. Những bức tranh hý họa chính trị do ông vẽ, lấy ý từ những buổi họp làm việc chung của Tự Lực Văn Đoàn còn làm nhiều người ba phần tư thế kỷ sau phải xuýt xoa, như bức tranh Lý Toét “Tam anh chiến nhất bố” trong Phong Hóa số 190…
Sau khi Ngày Nay bị đóng cửa năm 1940 ông làm việc cho báo Thanh Ngh.
Tô Ngọc Vân là một trong bốn người sinh viên xuất sắc nhất của bốn lớp tại trường Mỹ Thuật Đông Dương được Cụ hiệu trưởng Victoir Tardieu cho học vẽ sơn dầu đầu tiên ở Việt Nam (Lê Phổ - khóa I, Tô Ngọc Vân - khóa II, Lê Thị Lựu - Khóa III và Nguyễn Cát Tường - Khóa IV) .
Ông còn được xem là một trong Tứ Trụ của nền hội họa Việt Nam: “nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn” gồm Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc VânTrần Văn Cẩn.
Năm 1934, Ông cùng họa sĩ Lê Phổ và Trần Quang Trân phụ giúp họa sĩ Nguyễn Cát Tường trong phong trào cải tiến Y Phục Phụ nữ Tân Thời để xuất bản Ấn Bản ĐẸP. Tô Ngọc Vân vẽ hình bìa và viết bài Mầu Áo với Sắc Mặt, Lê Phồ vẽ Đồ Trang Sức và Trần Quang Trân chỉ dẫn cách chọn mầu chỉ thêu.
Từ 1935 đến 1938 ông dạy học vẽ ở trường trung học Phnom Penh, đến 1938 được đổi về Hà Nội dạy ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tới 1945. Lúc này ông giảng dạy trong trường, và sáng tác rất sung sức.
Những tác phẩm đầu tiên của ông về phong cảnh, tuy cũng được sự chú ý của giới yêu mỹ thuật, nhưng những bức tranh vẽ chân dung thiếu nữ mới làm ông thật sự nổi tiếng.                            
Tranh bìa Xuân Ngày Nay 1940 số 198
Tháng 9, năm 1950, họa sĩ Tô Ngọc Vân có được quyết định thành lập trường Mỹ Thuật ở Việt Bắc và trở thành người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường Mỹ Thuật.
Ông đã đào tạo được nhiều họa sĩ tài giỏi trong khóa Mỹ Thuật kháng chiến tại miền Việt Bắc.
Ông mất ngày 17 tháng 6 năm 1954 Bản Hoi nay thuộc xã Tân Thịnh, gần Ba Khe, thuộc tỉnh Yên Bái trong lúc ông đang trên đường về tỉnh Phú Thọ, sau khi đã hoàn tất cuộc vẽ về chiến Dịch Điện Biên Phủ. Ông đã bị đất và đá đè do phi cơ Pháp thả bom.
Nhà Danh Họa đã được yên nghỉ tại nghĩa trang Mai Dịch, trên đường Hà Nội đi Sơn Tây (cách trung tâm Hà Nội 10 km).
Cuộc đời hoạt động nghệ thuật của ông quá ngắn ngủi trong  khi tài năng đang độ sung mãn.
Thiếu nữ bên hoa huệ, Tô Ngọc Vân

Thế Lữ

Thế Lữ (1907-1989)

 


Thế Lữ tên thật là Nguyễn Đình Lễ, hoặc Thứ Lễ.
Thứ Lễ nói lái thành Thế Lữ: Người khách phiêu du qua trần thế.
Ông dùng bút hiệu Lê Ta, và cả Lê Tây khi viết văn vui (bài Lê Tây viết cho Lê Ta, Ngay Nay,số 169 trang 15) . Các tên của ông lập thành một vế câu đối, không ai đốI nổi.:
 Thế Lữ làm quà hai thứ lễ : Một quả Lê tây, một quảy Lê ta.
Thế Lữ sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907, tại Thái Hà Ấp, Hà Nội.
Bố là Nguyễn Thuận, làm xếp ga đường săt, người làng Phù Đổng, Tiên Du, Bắc Ninh, nay là Gia Lâm, Hà Nội. Mẹ quê Nam Định, theo đạo Thiên chúa, lúc trẻ đi buôn tơ, vượt phép gia đình lấy ông xếp ga. Sau về Hải Phòng làm nghề thuốc chữa bệnh trẻ con gia truyền, là bà Lang Thụ (Thụ là tên con trai lớn).
Khi Thế Lữ còn nhỏ, cụ nội bắt về Lạng Sơn làm con nuôi vợ cả của bố để mong bà cả chóng có con.
Suốt mười năm tuổi thơ, buồn nhớ mẹ ở xa và bố đi vắng quanh năm, chú bé Lễ đã sống thấm đẫm không khí rừng núi tỉnh Lạng, đầy cảm giác nhớ và sợ.
Tám tuổi học chữ nho, sợ đòn đi trốn, bị trói gánh về trường, nên càng sợ.
Đến năm mười tuổi, anh chú Lễ bị bệnh mất. Mẹ chú bầy mưu đánh tháo mang về Hải Phòng, từ đó mới được sống với mẹ.
Mẹ đưa lên nhà thờ làm “của lễ”, vì là con thứ, nên gọi là Thứ Lễ.
Thế Lữ bắt đầu đi học trường bảo hộ Pháp Việt, đến năm thứ ba trung học thì xin nghỉ.
Năm 17 tuổi, lập gia đình với cô Nguyễn thị Khương, 19 tuổi, thuộc họ đạo tỉnh Hà Nam, do mẹ hỏi cưới cho.( Ông bà được ba trai, một gái. Con trai đầu là Nguyễn Đình Nghi, sau này được ông hướng dẫn, bồi đắp đã trở thành một đạo diễn xuất sắc.) Thế Lữ là một người con rất có hiếu, trong thời gian làm việc ở Hà Nội, tháng tháng đều về Hải Phòng thăm nom mẹ và vợ con.
1928-1932 học bàng thính tự do trường Mỹ thuật Hà Nội, một năm thì bỏ. Quen nhiều bạn, chia sẻ nhau sách vở, văn chương…lập thành một salon văn chương nhỏ, cùng tập viết văn quốc ngữ và dịch sách. Thế rồi vì bệnh lao, ông về Hải Phòng nghỉ dưỡng ở vùng quê, vẫn chăm chú viết thơ, văn. Truyện Vàng và Máu và nhiều bài thơ đầu tiên được viết trong thời kỳ này. Bắt đầu có bài đăng báo, sách xuất bản.
1932 khỏi bệnh lao, về Hà Nội làm nhà in, ông gửi truyện ngắn, thơ đến báo Phong Hóa, bài nào cũng được đăng. Thơ Thề Lữ bừng sáng rực rỡ với phong cách hoàn toàn khác lạ, từ ngôn từ tới giai điệu, từ ý tưởng tới cách chọn lọc chữ.
Nhất Linh công nhận chất sáng tạo mới của ông trong: “Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng thơ mới” trên báo Phong Hóa số54,1933.
Thế Lữ ra nhập ban biên tập Phong Hóa, và trở thành thành viên Tự Lực Văn Đoàn 1934 ngay khi Nhất Linh thành lập. Ông hoạt động tích cực cùng các bạn văn nghệ sĩ trên hai báo Phong Hóa, Ngày Nay từ 1932 tới 1940.
Thời kỳ 1934-1937, sau khi Mấy Vần Thơ ra đời, ông được người đời ưa thích nhất trong số các nhà thơ mới.
Ông là người tiên phong trong việc xây dựng nền thơ mới, những câu thơ của ông còn mãi trong lòng người yêu thơ như:
…Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu! (Hổ Nhớ Rừng)
Hay:                Rũ áo phong sương trên gác trọ
     Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang… (Giây Phút Trạnh Lòng)…
Hay                 Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên     (Lời Than Thở Của Nàng Mỹ Thuật)
Những tiêu mục Tin Thơ, Tin Văn Vắn… của ông, là những bài phê bình thơ, dậy cách làm thơ, thưởng thức thơ được thanh niên đón đọc sôi nổi.
Ông đã đỡ đầu nhiều nhà thơ trẻ như Xuân Diệu, Huy Cận…. Ngoài ra, những truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện trinh thám … của ông cũng rất được hâm mộ… vì chúng đột nhiên cùng ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam.
Thế Lữ còn là một người làm báo tài hoa. Với bút hiệu Lê Ta, (Lễ =Lê ngã, với chữ nho ngã = Ta, một cách đùa với luật chiết tự, phân tích chữ.), ông viết phóng sự, bút chiến, văn vui…rất thu hút, như loạt bài Lê Ta Làm Báo, Lê Ta Xuống Hải Phòng…

Thế Lữ nhà văn (Nguyên Gia Trí Vẽ)  Thế Lữ kịch sĩ (Tô Ngọc Vân vẽ)

Khi nền móng thơ mới thiết lập xong, rực rỡ hơn bao giờ hết với hàng loạt thi sĩ đầy tài năng: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, … mà nhiều thi nhân đã được chính ông khám phá và giới thiệu.
Thế Lữ quay sang kịch nói, tuy vẫn viết, vẫn làm báo Ngày Nay. Là một nghệ sĩ say mê kịch, đầy tài năng, tự học trước một thể loại hoàn toàn mới, ông đã trở thành một diễn viên kỳ đặc, một nhà dàn cảnh (đạo diễn) xuất sắc đầu tiên. Ông muốn xây dựng nền kịch nói riêng của Việt Nam. Vì sân khấu bao giờ cũng là bộ mặt văn hoá của một nước. Đó là lúc ông tìm thấy nơi dừng lại, sau bao nhiêu tìm kiếm, khám phá, xây dựng, rồi để lại con đường cho người đi sau: Có lẽ chỉ nơi sân khấu đầy biến đổi, những màn kịch phù du, như thật như ảo…  là phù hợp với tâm hồn vô trụ, lúc nào cũng đi tìm cái mới của ông.
1937    Thế Lữ dàn cảnh, huấn luyện diễn viên cho ban kịch Tinh Hoa của Đoàn Phú Tứ.
1938    Tại Hà Nội, kết bạn cùng cô giáo Song Kim Phạm thị Nghĩa, một người say mê và giỏi thiên bẩm về kịch, để phụng sự sân khấu nghệ thuật.
1940    Báo Ngày Nay bị Pháp đóng cửa.
1942    Lập ban kịch Thế Lữ, rất thành công, nhưng phải rã cánh vì những đòi hỏi của thực dân Pháp lúc đó.
1943    Lập ban kịch Anh Vũ cùng Vũ Đức Diên.  Ông phụ trách dàn cảnh và diễn kịch.
1945-1946  Lưu diễn miền Trung, tới Quy Nhơn vì chiến tranh quay về Bắc.
1947    Tham gia kháng chiến chống Pháp, viết kịch, dựng vở diễn liên tục.
1957    Chủ tịch hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tới khi nghỉ hưu.
1977  Thế Lữ trở về sum họp với gia đình vợ con tại TP HCM tới khi mất 3-6-1989, hưởng thọ 82 tuổi.                                   
Tác phẩm của ông, một phần lớn đã được nxb Đời Nay ấn hành trước 1945:
Mấy Vần Thơ
Vàng và Máu
Bên Đường Thiên Lôi
Mai Hương và Lê Phong
Lê Phong Phóng Viên
Gói Thuốc Lá
Gió Trăng Ngàn
Trại Bồ Tùng Linh…
Thoa  (trong Giai Phẩm Đời Nay1944)
Sau 1945 có: Tay Đại Bợm, và nhiều truyện ngắn, sách dịch, kịch bản…