Hiển thị các bài đăng có nhãn Mùa Thu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mùa Thu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Tạ ơn


Từ vài năm nay, mỗi độ thu về, tôi thường đi bộ trong khu rừng phong gần nhà. Rồi từ đó, đi bộ trở thành một thói quen với tôi. Vào những ngày thu đẹp như hôm nay, tôi thấy muốn đựơc thả bộ, vì trong lòng thôi thúc bắt phải đi như để tìm kiếm một điểm hẹn, một kỷ niệm, một mảnh đời đã xa trong ký ức. Khu rừng này làm tôi thấy tâm hồn bình an, thanh thản, để tạm quên những muộn phiền hằng ngày. Và với thời gian, nơi đây đã trở thành một chốn hẹn hò quen thuộc, để tôi gặp lại tôi và sống lại những kỷ niệm vui buồn...

Thời gian trôi qua mau, nếu chia đời người ra thành bốn mùa, thì tôi đã bước qua ngưỡng cửa mùa thu của đời mình, tự nhiên tôi muốn ngừng lại để suy nghĩ về cuộc đời..Hôm nay, như thói quen, tôi lại thả bộ, chiều nay là chúa nhật Action de Grâce, người công giảo gọi là ngày lễ Tạ Ơn. Tạ ơn, vì sau những ngày dài chăm sóc vun trồng, cộng với những cơn mưa nắng của tạo hoá, bây giờ là mùa thu, mùa hoa màu, mùa gặt hái những hoa lợi mà thiên nhiên đã ban cho ta. Cũng trong tâm tình này, tôi gởi hồn theo gió thu, ngước mắt nhìn trời trong xanh. Ánh nắng chiều lung linh ẩn hiện sau những tàng lá phong, tiếng chim hót hoà với tiếng lá xào xạc dưới chân... bỗng lòng tôi chùng xuống và thầm hỏi " đây chính là hạnh phúc chăng ?". Nếu thật sự như vậy, thì tôi xin nhận hạnh phúc này, xin tạ ơn trời đã cho tôi có những ngày thu tuyệt đẹp như hôm nay, để hồn tôi thanh thản, nhẹ nhàng, để lòng tôi tràn dâng niềm cảm tạ... Xin cám ơn trời đã cho tôi được cuộc sống ngày hôm nay, một gia đình nhỏ bé, con cái khoẻ mạnh và một người chồng thương yêu ân cần. Anh yêu, chắc anh đang hỏi tại sao cô vợ của anh hôm nay lẩn thẩn quá!

Xin trả lời anh là không phải thế đâu ! Vì vợ anh hôm nay đã tìm được bình an trong tâm hồn, nên lòng tràn ngập tin yêu và cảm tạ. Anh sẽ hiểu tại sao qua những dòng tâm sự dưới đây.

Từ lâu, tôi cứ tự hỏi tại sao mình dễ rung động trước một rừng thu, một tiếng chim hót, một ánh nắng chiều...Còn nữa, có lẽ vì quá khứ vượt biên, nên tôi rất dễ mủi lòng trước những cảnh chia tay. Chẳng hạn như khi xem một đoạn phim mà có cảnh chia tay ở sân ga hoặc bến tàu, rồi người đi kẻ ở bịn rịn chia tay giữa sương mù và tiếng còi tàu phũ phàng vang lên... tự nhiên tôi thấy mũi cay cay và mắt mờ lệ! Những lúc như thế chồng tôi cứ trêu, bảo là sao mít ướt thế! Một điều lạ là khi ở sở làm, thì tôi lại là một người khác. Từ boss của tôi cho tới những bạn đồng nghiệp đều nói là tôi có "bonne humeur contagieuse", vì tôi thích nghe, thích nói chuyện vui và thích... cười. Cười mình, cười người, cười ngay cả hoàn cảnh và sự việc khó khăn...Thế nên những lần có dịp đi ăn ờ ngoài, những người bạn ở sở muốn ngồi gần tôi để có dịp nói chuyện vui và... cười. Mỗi lần nghe bạn bè đòi ngồi gần tôi, bà thứ ký hay đùa đòi 5$ một người!!!

Mãi sau này, tình cờ tôi mới hiểu thái độ lạ lùng và contradictoire của mình. Đó là vào một buổi tối, tôi có dịp nói chuyện với nhỏ bạn, Lan, rồi không biết câu chuyện đưa đẩy như thế nào mà tôi và Lan mạo hiểm trở lại mảnh vườn bí ẩn, để kể cho nhau nghe những kỷ niệm kinh hoàng trên biển đông. Ai đã từng là thuyền nhân, hay nói một cách đơn giản, ai đã từng đi vượt biên để tìm tự do sau biến cố 1975, thì sẽ hiểu tại sao anh chị em tôi và cả chồng tôi, những năm sau trại tị nạn, không ai nói với ai điều gì, nhưng chúng tôi tuyệt đối không bao giờ nhắc lại chuyện vượt biên. Có thể nói đây là một thứ "Loi du silence". Chúng tôi có thái độ như thế là vì muốn bảo vệ nhau, muốn giữ cho nhau sự bình an trong tâm hồn. Thú thật, cho tới bây giờ, tôi cũng không khẳng định được làm như thế là đúng hay sai ! Có một điều tôi chắc chắn, là phải biết bao nhiêu năm sau, tôi mới không còn những cơn ác mộng, để rồi khi tỉnh thức, được vui mừng khôn tả khi biết đó chỉ là giấc chiêm bao!!!

Xin cám ơn Lan đã mở cửa lòng, để tôi cũng can đảm trở về quá khứ và hiểu được rằng, sau những ngày dài thất lạc và đói khát trên biển đông, sau những lúc chắc chắn là mình đã đi qua bên kia thế giới, hôm nay có được cuộc sống như thế này là một diễm phúc, một phép lạ.

Còn Lan, bạn tôi cũng thế, sau cả tháng trời mỏi mệt trôi dạt trên biển, bạn tôi đã chứng kiến một thảm cảnh. Làm sao tôi quên được giọng nói trầm, gần như sắp ngẹn của Lan, kể lại cho tôi rằng trong cuộc  hành trình biển đông, Lan ngồi kế một người bạn đồng hành, và chỉ một vài giây phút vì quá khủng hoảng, đuối sức và sợ hãi tồn cực, anh đã nhảy xuống biển giữa đêm thâu gió bão ! Những người còn lại trên tàu đều kiệt sức, nên đành nhắm mắt nghe tiếng cầu cứu tuyệt vọng giữa lòng đại dương... Cho tới bây giờ, tiếng kêu ai oán tuyệt vọng vẫn còn đeo đuổi bạn tôi như một oan hồn trách móc...

Khi vào tới đất liền, bạn tôi đã ngất xỉu từ lâu và chỉ còn như một cái xác vỏn vẹn 28 Kg. Vì tưởng Lan đang hấp hối, nên người ta đưa bạn tôi vô một nơi yên tịnh để... cầu hồn. Bây giờ, sau bao năm, bạn tôi vẫn còn nhớ rõ từng tiếng mõ tụng kinh của những sư cô chuẩn bị đưa hồn bạn tôi về Niết- Bàn... Và cũng như tôi, bạn tôi và hai người em trai không bao giờ nhắc lại quá khứ thống khổ này.

Qua những tâm sự trên, tôi càng hiểu tại sao bây giờ bạn tôi vô cùng lạc quan, lúc nào  cũng cười nói huyên thuyên. Mỗi lần bạn tôi bất chợt ghé thăm, chồng tôi hay trêu rằng "Chưa thấy người đã thấy tiếng", hoặc khi thấy chúng tôi yêu đời xí xọn làm điệu thì". Trời ơi, sao mà điệu dàn trời mây vậy ! Ngày mai trời có sập xuống chắc cũng phải soi gương một cái để được đẹp trước khi... chết!". Dù trêu tôi như thế, nhưng tôi biết trong thâm tâm, chồng tôi vui khi thấy vợ mình yêu đời và hầu như đã tìm được bình an trong tâm hồn. Anh đã bao lần nắm tay tôi cùng mở cánh cửa quá khứ, để thăm lại mảnh vườn bị coi như vùng cấm địa. Và như loài chim tha hương, chúng tôi đã giúp nhau băng bó và thoa dịu vết thương lòng. Bây giờ, tôi hiểu được là quá khứ, dù có đau thương hoặc gian truân tới đâu, thì sẽ vẫn là những kỷ niệm mà tôi không thể nào quên hay xoá bỏ được. Thôi! thế thì hãy chấp nhận quá khứ này và rồi nhờ đó, tôi đã trở thành tôi của ngày hôm nay, không vẹn toàn, nhưng đầy lòng tri ân!

Tôi cũng để ý một điều là càng lớn tuổi, tôi thấy mình hay bâng khuâng thơ thẩn lúc giao mùa, ngược hẳn với hồi còn trẻ, tôi ít khi để ý đến sự thay đổi của bốn mùa... Lại nữa, tôi nghiệm ra một điều là gần đây, tôi rất quí những buổi họp mặt bạn bè, những cuộc gặp gỡ với những người bạn dù tuổi họ đáng anh hoặc ... chú tôi. Khi có dịp, tôi rất thích nghe họ kể lại những kỷ niệm thời sinh viên dù hài hước nhưng chứa đầy tình người. Nhờ những chân tình quí báu, sự nhiệt tâm và tinh thần đoàn kết của những đàn anh mà Họp Mặt 2013 được thành công. Bây giờ, tôi thật sự thấu hiểu ý nghĩa của hai chữ Họp Mặt.

Cũng nhờ kỳ Họp Mặt 2013, mà hai vợ chồng tôi có dịp gặp lại và làm việc với những người bạn mà chúng tôi gần gũi như anh em. Để rồi sau những giờ bàn thảo, dù trời đã khuya, chúng tôi vẫn muốn ngồi bên nhau dưới ánh trăng sau vườn, ly ruợu vơi, đầy... kể cho nhau nghe những mảnh đời đã mất, những tâm tình thầm kín, những vui buồn đời người...

Rồi cũng nhờ có Họp Mặt 2013, mà tôi được gặp lại những bạn bè cũ mà vì cuộc sống, đã làm chúng tôi mất liên lạc một thời gian. Bạn thân ơi, xin nhớ nhé! Như những đàn anh đi trước, chúng ta phải gìn giữ những kỷ niệm để tình bạn được vẹn tròn, sống mãi chờ một ngày Họp Mặt tương lai. Trong khi chờ đợi mùa Họp Mặt tới, chúng ta hãy tìm gặp nhau ở khu vườn Đất Lạnh Tình Nồng, nơi mà những đàn anh đã có công vun trồng, chăm sóc, để ta có thể chia xẻ những cảm súc và chải lòng mình trên mảnh vườn thiêng liêng đầy hoa trái này.

Thân tặng bạn bè và xin gởi đến anh NDC một ý nghĩ đặc biệt cho ngày hôm nay (15/11/2013).



Marie Hồng

Một chuyến đi thú vị

Một chuyến
đi thú vị
Nguyễn Duy Vinh 
Nếu không có mấy người bạn québecois rủ rê đến đảo để cùng giúp họ tổ chức một khóa tu thiền theo Pháp môn Làng Mai trên đảo thì chắc chúng tôi chẳng bao giờ đi thăm đảo này. Đảo đó có một cái tên rất nhẹ nhàng, hình như đã được một thuyền trưởng hay một chúa đảo nào đó trong quá khứ (tức là cũng gần đây thôi) vì thương nhớ người tình mới đặt cho đảo một cái tên khá thơ mộng Les Îles de la Madeleine.
Hai vợ chồng tôi khăn gói quả mướp lên đường thật sớm để hưởng những ngày thong thả trên đảo trước khi bị (được ?) xung công vào khóa tu. Có nhiều cách đến đảo này lắm. Các bạn có thể đi tàu ferry (traversier) hoặc đi máy bay. Đi tàu thì bạn có thể đem cả xe hơi theo và bạn phải lái đến các cảng đỗ như Souris ở Prince Edward Island (PEI) hoặc ở Montréal (và mới đây nghe nói bạn có thể đi từ Trois-Rivières). Mấy chiếc tàu này khá to, đuôi nó có thể mở rộng (giống như loại tàu há mồm của hải quân Hoa Kỳ dùng vào thời điểm di cư năm 54 ở nước ta !) để hành khách đi tàu có thể tự lái xe lên tàu, xin xem hình bên đây.

Còn nếu bạn có ít thời giờ hoặc dư giả tiền tiêu thì có thể đi máy bay như chúng tôi đã làm. Hai vợ chồng chúng tôi đi với Air Canada và chúng tôi bay từ Dorval. Những máy bay của Air Canada chuyên chở hành khách đi đảo là những chiếc máy bay hai động cơ do hãng Bombardier chế tạo. Máy bay có tên Dash 8 (và đa số là Series 300 chở được khoảng tối đa 50 người mỗi chuyến). Xin xem hình bên đây chụp trước khi chúng tôi lên phi cơ:

Máy bay đáp xuống sân bay Havre-Maison vào khoảng một giờ rưỡi chiều và cô Louise (một người bạn mới và cũng là một thành viên của ban tổ chức khóa tu) đã có mặt để đưa chúng tôi về nhà trọ.

Nhà trọ đẹp lắm. Nằm cạnh biển, sừng sững một mình một góc trên đỉnh đồi nhìn ra biển mênh mông. Con người ta trước biển cả bao la bỗng thấy mình nhỏ bé quá. Tôi cứ ngồi cả giờ lặng đi trước khung cảnh hùng vĩ đó. Biển xanh rì bao bọc. Khi gió êm thì biển lặng. Khi gió gào thét từng cơn thì biển trả lời bằng những đợt sóng đập tới tấp vào bờ. Và chính những đợt sóng này là những nguyên nhân gây ra nhiều phiền toái và lo lắng cho người dân trên đảo. Lý do giản dị là những cơn sóng đó đủ sức làm mòn những bờ vách thiên nhiên quanh đảo và làm sụt lở dần những bức tường thiên nhiên này. Với thời gian, nếu không có những phương pháp “trị sóng”, dân đảo nghĩ có lúc đảo sẽ không còn vì khi đất hết thì nước biển sẽ tràn ngập khắp nơi. Được bao nhiêu năm nữa có bạn sẽ thắc mắc hỏi. Chúng tôi không có câu trả lời chính xác, có người nói trong vòng một thế hệ nữa thôi…Chúng tôi không dám nghĩ đến chuyện này nhưng đi đâu cũng nhìn thấy nó. “Érosion” là tên gọi của hiện tượng này bằng tiếng Pháp mà cháu bé Ismail, học sinh lớp 5 trường làng École Primaire aux Iris đã lên tiếng cảnh tỉnh chúng tôi khi một câu hỏi đã được đặt ra trước lớp hôm chúng tôi đến thăm trường: qu’est-ce-qui vous concerne le plus les Madelinots?

Tôi xin dán xuống đây vài tấm hình cho thấy sức mạnh của sóng ngày đêm vỗ vào bờ:

Hoặc tấm hình dưới đây chụp vào buổi sáng sớm lúc mặt trời vừa lên, từ nhà trọ của chúng tôi. Cô Linda chủ nhà trọ cho biết ngay là đất nhà cô cũng lở và sụp dần và cô lo không biết lúc nào phải dời nhà hoặc bán đi để mua căn nhà mới xa bãi biển hơn. Chúng tôi rất xót xa khi nghe những lời nói đó. Và tôi cũng được biết dân đảo đã tìm mọi kỹ thuật để giảm bớt sức mạnh của sóng biển. Khi thì chúng tôi thấy họ đổ đá dọc theo bờ biển, khi thì chúng tôi thấy họ dùng những viên xi măng to theo phương pháp người Hy Lạp và Bồ Đào Nha dùng (còn có tên là dollos) như một tấm hình khác dưới đây. Việc đổ đá ven bờ tốn kém lắm. Theo ước lượng thì cứ một cây số đường biển thì tiền tốn có thể lên đến khoảng 100 ngàn đô la (Gia kim). Bạn cứ tính thử với khoảng 300 cây số đường vòng vèo quanh đảo, đổ chứng ấy đá sẽ tốn khoảng 30 triệu đồng. Tiền này không lớn so với số tiền chi tiêu của chính phủ Québec khoảng xấp xỉ 73 tỉ đô la (tức là khoảng 4% tổng số chi tiêu) theo như hồ sơ chính thức của chính phủ cho biết hiện nay:

Và đây là hình:


Những ngày kế tiếp trên đảo là những ngày thảnh thơi và thư giãn. Sáng nào sau khi ăn chúng tôi cũng cuốc bộ cả giờ đồng hồ dọc bãi biền. Bãi dài rộng vào mùa này không một bóng người. Gió thổi mạnh từng cơn và nhiệt độ có hôm xuống khoảng 5 hay 6 độ. Chúng tôi bảo nhau ăn mặc thật ấm. Cũng may nhờ có mặt trời ban cho những tia nắng ấm, gió cách mấy chúng tôi cũng không ngần ngại đi. Trời xanh ngắt không một cụm mây. Sóng vỗ lăn tăn hoặc cuộn thành một khối trắng xóa thoai thoải tiến vào bờ. Hôm nào gió ít thì sóng như có thời giờ ôm lấy bờ, mơn trớn vuốt ve giống như bàn tay yêu thương của người tình đang thoa nhẹ trên thân thể người yêu. Bất chợt lúc ấy tôi cũng nhìn sang vợ nhưng nàng đi nhanh quá làm tôi không bắt kịp để đưa bàn tay lạnh ngắt của mình sang nắm lấy tay nàng. Một cảm giác hụt hẫng xâm chiếm tâm hồn nhưng nó lại thoáng tan đi với tiếng vỗ của một vài cơn sóng lớn, bất chợt làm kẻ bộ hành lòng bỗng bâng khuâng.

Và đây là tôi, người hùng trên biển xanh (xin xem hình).

Hôm nào trời lạnh và ít gió, chúng tôi rủ nhau đi hái những quả canneberges (cranberries), từ điển mới trong nước gọi những quả này là quả nham lê. Những quả dại mọc đầy bãi lau sậy dọc theo bãi biển. Quả nào quả nấy đỏ mọng mọc len lỏi trong đám cỏ lau và sẵn sàng phô trọn tấm thân “kiều nữ” khi người hái vén gạt những cỏ lau đi. Thế là mình chỉ còn đưa hai tay vào bốc, giật, kéo và hốt ra từng chùm nham lê. Không giấy bút nào tả được cái hạnh phúc này. Như là bắt được vàng ấy. Nụ cười của hai đứa chúng tôi trên tấm ảnh dưới đây chứng minh cho điều đó. Bỗng dưng trong đầu tôi lóe lên bài hát mà tôi đã học được trong một khóa tu :

Le bonheur est maintenant
Je laisse tomber tous mes soucis
Nulle part où aller
Et rien à faire
À présent je prends mon temps

Bài hát đưa tôi về với giây phút hiện tại. Giây phút ấy là giây phút tuyệt vời, viên mãn. Tôi lại lẩm bẩm một mình: quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa tới, giây phút hiện tại này đây mà ta còn không tiếp xúc được thì đúng là mình đang sống với ma.

Những ngày kế tiếp trên đảo, chúng tôi đã được đi xem một khu vườn trồng táo và làm rượu xít (cidre). Hàng trăm hàng ngàn quả táo mọc đỏ chín bám lủng lẳng vào thân cây. Trông bằng mắt là mình đã thèm lắm, chỉ muốn xin được một quả và đưa cả mồm vào ngoạm và cắn từng miếng táo ngon ngọt, nhai luôn cả vỏ. Đây là một hạnh phúc lớn, được sống gần thiên nhiên. Lại còn được ông chủ vườn táo cho nếm món rược xít (cidre) thơm nồng. Uống vào nhưng không dám nuốt chửng, sợ đánh mất đi hương vị táo lên men đang tới tấp chen nhau chui vào từng tế bào lưỡi, tạo cho người uống một cảm giác đê mê khoan khoái.


Rồi việc gì đến sẽ đến, cuối cùng cho một chuyến đi là khóa tu thiền được tổ chức trên đảo Grande Entrée, nằm tận phía bắc của nhóm đảo Madeleine. Đảo Grande Entrée không xa nhà trọ. Chúng tôi lái xe mất gần một tiếng. Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi…Nhưng đường đi thì quá ngoạn mục. Xe lái dọc theo xa lộ 199, một con đường tráng nhựa rộng thênh thang chạy dài tít chân trời, với hai bên là biển xanh rì. Trời xanh quang đãng không một gợn mây.  Nhưng mây ở đây thì “chúng nó” đến nhanh lắm và “chúng nó” cũng không bao giờ hỏi ý kiến mình. Trời đang đẹp như thế mà khi chúng tôi đến khu nghỉ mát La Salicorne (nơi có khóa tu) thì mây đã ùn ùn kéo đến. Đây lại là một bài học quý giá về vô thường. Mặt trời nhất định không chịu thua, hắt những tia nắng yếu ớt cuối ngày qua những đám mây. Khi mây thiếu đoàn tụ và bay xa nhau quá, tia sáng xuyên qua được thành từng bó và chiếu xuống mặt biển xanh phẳng lặng. Khung cảnh hùng vĩ quá. Tôi vội ngừng xe và đem máy ảnh ra chụp. Cảnh tượng ấy người trên đảo được xem rất thường và họ có tiếng gọi cho những bó hoa trời làm đó là “des pieds de vent” (dịch nôm na là “chân gió”) hay tả cho nó thơ mộng thêm tí nữa là những sợi tơ trời lơ lửng, vất vưởng đang còn lưu luyến những giây phút trần gian. Xin dán xuống đây tấm hình cô Louise gửi tặng (đẹp hơn tấm hình tôi chụp rất nhiều). Lúc đó mình cố gắng quay về với hơi thở để thật sự tiếp xúc được với cảnh tượng thần tiên, nhiệm mầu trong đó mây, gió, tia sáng mặt trời, biển xanh cùng quấn quít vào với nhau mà hiện hữu. Cảnh tượng ấy kéo dài độ mươi mười lăm phút cho đến khi mây đến thật nhiều, rồi mặt trời sửa soạn đi ngủ, và cũng là lúc chúng tôi vào khóa tu.


Khóa tu do người Gia Nã Đại Pháp tổ chức. Tôi phải nói ngay là rất chu đáo. Chương trình sinh hoạt mỗi ngày đã được thông báo từ trước gồm có những giờ thiền ngồi (thiền tọa) và thiền đi (kinh hành hoặc thiền hành ngoài trời). Ăn cơm sáng trưa chiều hoàn toàn trong im lặng và mỗi bận trước khi ăn đều có một anh hay một chị thiền sinh đọc 5 lời quán nguyện (bằng tiếng Pháp). Có những buổi thiền thư giãn, những buổi tập những động tác Yoga hay khí công. Ngoài ra chương trình ngày thứ nhì có Pháp thoại, Pháp đàm và buổi chót của khóa tu có năm anh chị xung phong làm thành viên của một panel chia sẻ về 5 giới cho người tu tại gia. Trước khi ra về, mọi người tụ họp nơi thiền đường (xem hình dưới đây) để chụp một tấm hình lưu niệm. Ai nấy hớn hở chia tay, ôm chầm nhau trong tư thế thiền ôm (và phải thở đủ ba hơi) và chúc nhau những ngày tươi đẹp nhất.



Chúng tôi cũng lại khăn gói quả mướp lên đường và cũng không quên dừng chân ngắm cảnh biển lần chót (xem hình) trước khi về lại nhà trọ.

Buổi tối hôm đó trước khi đi ngủ, chúng tôi lại được những thiên thần của đảo rủ nhau cho chúng tôi thưởng thức màn mặt trời lặn lần cuối trước khi chúng tôi lấy máy bay về lại Montréal. Thật là một chuyến đi thú vị.


Nguyễn Duy Vinh (cuối thu 2013)


Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Trăng Thu - Khái Hưng - Ngày Nay số 29 -1936

Truyện ngắn "Trăng Thu" được đăng vào mùa Thu 1936 trong số Ngày Nay 29. Đây là một trong những bài viết hiếm hoi về mùa Thu của các tác giả TLVĐ trên tuần báo Ngày Nay cho đến số cuối cùng vào năm 1940.






Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Mùa Thu Đất Lạnh, của Điệp hay của ai?

Mùa Thu Đất Lạnh, của Điệp hay của ai?

Mía

Không chờ đợi, nhưng mùa Thu vẫn đến, gió hiu hiu se lạnh, rồi thời tiết thay đổi dần... 
Sau vài cơn mưa, một buổi sáng, gió bỗng dậy lên, cây lá xào xạc, như nói với nhau là trời đang bắt đầu vào Thu, cây hân hoan sửa soạn được nghỉ ngơi trước Đông, lá xôn xao vui mừng vì sắp được thay mầu tươi thắm...
Ai bảo là Thu buồn, là Thu sầu, là Thu bi ai...Thu thế nào là do Tâm của mình diễn nghĩa vào thời điểm, một không gian ở nơi chốn nào đó...
Đang cô đơn hay vừa thất tình chắc Thu sẽ buồn da diết, nhưng nếu tay trong tay với người yêu thương, thì hẳn là Thu bỗng đẹp biết bao...
Dạo một vòng Laval vào mùa Thu, lá cây phong đã đổi mầu rực rỡ, vàng, đỏ, cam, tìm lại cây phong trên dốc gần pavillon Pollack, năm nay cây không đầy lá đỏ như Thu năm trước nữa...!
Trường xưa vẫn còn đó, những hàng cây phong vẫn còn đây, nhưng lá trên cây không phải là lá của năm trước, và người Laval vẫn qua lại không phải người của năm xưa...
Cứ đến miền Đất Lạnh vài năm rồi họ sẽ lại đi…vẫn là dòng đời luân chuyển...
Sau nhiều năm, đại học Laval đã thay đổi, xây cất nhiều, khang trang hơn trước..., tháng ngày chồng chất, có người đã sống hơn 50 năm ở miền Đất Lạnh, có người đã ra đi không trở lại...kỷ niệm vẫn còn, vẫn trở về...những khoảnh khắc vui buồn, thiếu thốn vật chất thời còn đi học… nhưng trong đó chất chứa sức mạnh của tuổi trẻ, ý chí tin yêu của thời sinh viên...cùng nuôi nấng giấc mơ cho tương lai, cho sự nghiệp để đạt được mục tiêu của đời người...
Tìm về kỷ niệm nơi chốn cũ, dù chỉ một hay đôi ba lần...cũng đủ mãn nguyện, dầu lần đầu đã ngỡ ngàng nhận ra nhau khi mái tóc đổi màu, hay vết thời gian đã hằn trên làn da, trên dáng vóc…
Từ đó, người ta chợt thấy như được hồi sinh, làn gió mới ấy đã làm sống lại tâm tình thời trẻ, và thổi đi những băn khoăn lo âu, khắc khoải...họ đang nối lại tình thân tưởng chừng như đã lãng quên...
Mùa Hè hân hoan gặp gỡ đã qua, nhưng Thu đến không làm Đất Lạnh buồn bã, họ đã tìm lại nhau...viết cho nhau, gói ghém, chia xẻ tâm tình của mình...
“Điệp ơi! cánh bướm năm xưa hãy nhớ trở lại...” và Điệp đã trở lại với Đất Lạnh…bài của Điệp làm người đọc bâng khuâng... xin hãy viết, viết nữa đi nhé, viết để cho Lan, cho mọi người đọc những dòng chữ mênh mang tình người, trải rộng lòng yêu thương, cho tôi được theo dấu chân Điệp viễn du trong thế giới bình yên, tràn ngập tin yêu và sức sống trong hiện tại...
Những dòng chữ của mùa Thu của BT Phụng, đã làm tôi tự hỏi: thì ra Saigòn cũng có mùa Thu mà sao tôi lại hờ hững và quá vô tình ...“ Mùa Thu Saigon lá me cũng đổi màu và cũng rụng. Những cây có dạng lá giống như lá me như cây Điệp, cây Phượng Vỹ…lá cũng đổi màu và cũng rụng khi Thu về...” nhưng câu nói dễ thương nhất có lẽ là “ Lá me non rơi nhiều đến độ thoạt nhìn ai cũng ngỡ người ta phơi cốm trên hè phố” thật lãng mạn và thơ mộng làm sao... khi ví von lá me với mầu cốm xanh của xứ Bắc...
Thu của Đất Lạnh không than khóc hay ủ rũ mà đầy mộng mơ, kỷ niệm và thương yêu. Bây giờ là lúc ta nên nhẩn nha, pha một tách trà hay sửa soạn một double expresso, bắt đầu viết lại những rung động ban đầu, thuở vừa đôi mươi, khi trái tim chúng ta từng đập những nhịp thật nhanh, vì hồi hộp hay rung động...đã đến lúc chúng ta không còn gì để mất và cũng chẳng còn gì để lại...
Hãy chia xẻ với nhau những kỷ niệm, những điều chưa nói, những bí mật của khu vườn đầy hoa cỏ xinh tươi của tâm hồn...để một mai khi ra đi, chúng ta sẽ thảnh thơi và hân hoan vì đã tặng lại cho thế gian, cho bạn bè, cho người thương, những gì tốt đẹp, vĩnh cửu nhất của cuộc sống đó là “tình thương, tình yêu và tình người...”



Nhìn Những Mùa Thu Đi

Nhìn Những Mùa Thu Đi hay Nhìn Những Mùa Thu Đến.

Khi gặp nhau, mùa hè năm nay, tôi trong Vòng Tay Cô Y Tá, như cô nhà văn nào ngày xưa đã viết quyển truyện Vòng Tay Học Trò.
Trong Vòng Tay Y Tá, người chăm sóc cho mình, trong khi trong Vòng Tay Học Trò, lo cho học trò, mai mốt tụi nó bỏ nó đi.

Thế mà cũng trốn đi.
Lấy xe về Đất Lạnh giữa Mùa Hè, sắp đến Mùa Thu.

Ngày xưa đến Vancouver, Calgary, Toronto, Ottawa, Québec, Sherbrooke, Ottawa, Montréal, mùa tựu trường lúc đó và bây giờ vẫn khi Mùa Thu đến, có gió lành lạnh như ai nói đó là gió heo may.

Có lá thu đỏ, anh nhặt tặng  em.

Có mộng mơ nhưng phải học.
Ở chương trình Điện, Théorie des Circuits I et II, của Pr Boivert, tuần nào cũng có Quizz.
Thầy nho nhỏ, khi dạy học rất đam mê.
Thầy giảng rất hay. Điều gì Thầy giảng, ba bốn phút hiểu liền.

Tôi không nhớ.
Có một phương trình gì về điện, IR=V2… gì đó, học mãi mà không nhớ.
Thầy Boisvert  ít khi cho Quizz, chỉ để anh Giao, anh Định hay anh Mười Lăm, hay Đài, hay ai đó.
Không phải không muốn nhớ, nhưng bây giờ Nhìn Những Mùa Thu Đi, quên nhiều mà nhớ ít.
Anh vẫn nhớ những ngày đó em hay mặc áo màu gì.

Nhớ anh Giao rất nhà giáo, anh Định chưa nói đã cười, anh Mười Lăm, nghe tên đã biết tính người, còn cả nhiều cây cổ thụ khác như anh Khương, hay còn sắp cổ thụ thì nhiều lắm.
Nhớ Thầy Larkin Kirwin: Nous commencons le cours avec une prière; Thầy Chassé dạy Mécanique, Thầy Pouliot lãng đãng tối ngày, Thầy Dupras, dạy Toán, có thói quen vuốt moustache, …

Tôi viết  và nhớ lại chỉ vì bao năm, một mình Nhìn Những Mùa Thu Đi.

Thu đi, cho lá vàng bay,

49 năm qua, có ai gặp lại, cũng khó nhận ra nhau.

Tôi thì dễ lắm, khi nhìn ai bạn cũ, tôi không biết đánh guitare và không biết hát, nhưng cũng nho nhỏ:
Anh Là Ai?

Ừ nhỉ.
Sao Việt Khang vẫn cứ bị tù?

Mẹ, lời Minh nói khi còn sống.

Chắc chưa sai đề đâu.

Viết cho đất Lạnh Mùa Thu,
Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Chắc cũng không không sắc sắc.

Mua Thu đó quen và gắn bó lâu nhỉ.

Vì quen và học với nhau ở Đất Lạnh Mùa Thu.
Ước gì, tôi viết được như Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương hay NNN, bây giờ đã là Lá Ngọc Cành Vàng đâu còn Hoạn Nạn Gian Nan?

Tôi viết như vừa đi đường, vừa kể truyện, như cái anh chàng nào ngày xưa cũng đã viết như vậy.
Nhưng những gì tôi viết là những gì tôi sống với bạn bè.
Không thù hằn không phản bội.

Viết để nhớ những ngày salami, laitue, Dow, Penmas khi học bổng vừa về.
Hay cũng có lúc sang, có anh chị nào cho quá giang đi Canton.

Chưa bao giờ những năm đầu 60, ở Québec, ăn món ăn VN ngon hơn Mỹ Cảnh.

Em ơi  bây giờ đã qua rồi.
Canton đã bán, bây giờ ai cũng đi Hilton, Astral, làm anh nhớ.

Hôm nay tôi lại về chốn này nghe chiếc lá rơi.
Mùa Thu.

Anh nói nhỏ.
Hoa cũng tàn phai và Thu cũng tàn phai.

Em hỏi anh viết gì?
Buồn thì nhớ, hết buồn thì lại vui, …
Tiếng hát Lệ Thanh đó, sang Montréal, không còn đi hát từ năm 1975 rồi.

Bài anh nói viết cho Đất Lạnh Mùa Thu:
Nhìn Những Mùa Thu Đi.

Mà Thu đâu?
Thì Thu đó.

Anh viết
Nhìn Những Mùa Thu Đi
Nhưng cứ mong viết một câu gì

Bài anh viết, sẽ xin để musique de fonds bài Nhìn Những Mùa Thu Đi, Hà Thanh hát.
Con gái Huế, ai hát Nhìn Những Mùa Thu Đi hay hơn Hà Thanh?
Hỏi chị Phương mấy cô Huế thế nào.

Có những người yêu, uống trà, café cùng một tách.
Chắc tình yêu như vậy.

Nhưng không, anh nghĩ sẽ đổi musique de fonds, không phải bài Hà Thanh hát, mà lấy bài Hoài Cảm. Ba bài hay nhất là Sĩ Phú, Duy Trác và Ngọc Hạ.

Anh thấy bài Hoài Cảm Ngọc Hạ hát hay, nhẹ nhàng hơn.
Bao mươi mấy năm.
Nhìn những Mùa Thu Đi hay Những Mùa Thu Đến?

Đến Đất Lạnh một ngày Thu, cách đây  lâu. 
Bây giờ mới có dịp viết về Mùa Thu.
Chỉ còn một hay vài năm nữa.

Những phút ban đầu ấy, tuổi thơ, muốn biết, muốn học hết, để về xây dựng nước, lòng không mong gì hơn.
Trả nợ đời, nợ nước.
Thế rồi.

Đến Ottawa, hai ngày ở khách sạn Lord Elgin, mỗi buổi sáng, ăn điểm tâm đều bắt đầu bằng thức ăn gì như bánh tráng, bánh đa nho nhỏ, bây giờ mới biết là rice crispies, ăn với sữa. Ngày xưa phải đi theo đường Công Lý theo hướng Tân Sơn Nhất, mới có quán bán sữa tươi.

Nếu có một đĩa xôi đậu xanh hay đậu phộng, ngon biết chừng nào.
Phi Lạc sang Tàu.
Lord Elgin, vẫn còn.
Lúc ấy 1964, chỉ mong có xe lửa từ Ottawa về Québec thật nhanh, gặp bạn bè và gặp người quen.
Rừng cây lá đổi màu, đỏ rực rỡ, vàng tươi.
Cảnh thơ mộng quá.

Đó là Mùa Thu Canada, Mùa Thu Québec, Mùa Thu Đất Lạnh của tôi.
Lần đầu.
Chắc là lần đầu nên nhớ. 
Không phải vậy.

Mấy hôm, nhìn lá Mùa Thu ở Hautes-Gorges, đẹp nhưng không phải lá Thu Québec, Laval, Đất Lạnh.

Có gì nhớ thì là chuyện của tôi.

Nhớ Tiếng Chuông Chiều Thu của Tô Vũ, ai đã hát cho tôi nghe.

Lá thu nhẹ rơi rơị
Nắng thu vàng phai phai
Ai về âm thầm nẻo cũ bâng khuâng tình xưa
Hiu hiu luồng heo may, 
Du du làn mây bay
Ai nhắn theo mây miền quê vấn vương xa đó ngàn dâu thưa
Từ miền xa tiếng chuông ngân.
Hồi buông lớp lớp theo gió vàng.
Từng cơn sóng mờ xóa dần trong sương lắng. 

Ngày lại ngày tiếng chuông tan. 
Tình thu cuộn lá thu úa vàng .
Chuông ran lời nhắc nhở .
Người em đẹp xa anh
Ðừng như lá thu phai phai dần
.

Mùa nào cũng là của em và anh viết cho em.
Hôm nay vào Thu, mùa này là Mùa Thu.
Thôi, anh không viết cho em nữa đâu.

Bây giờ em cuối Xuân.
Bên anh vào Thu.
Không nói hai đứa mình không có Mùa Thu.

Vì Mùa Thu của em là Mùa Thu của anh và cũng vậy.

Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Tôi đang viết một bài về Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Anh viết đến đâu rồi?

Bây giờ vào Thu và mai mốt Lập Đông.

Tôi muốn viết vài câu cho các bạn trẻ Đất Lạnh.

Các anh, các chị đã nhìn Nhìn Những Mùa Thu mấy mươi năm rồi.
Cũng một hai Mùa Thu nữa  rồi Lập Đông.
Mấy mươi năm Đất Lạnh.
Thế mà đã hơn hai phần ba cuộc đời. 
Thắp đuốc đi em.

Cổ Thụ. Đại Thụ đã giữ gìn Đất Lạnh mấy mươi năm.
Các em phải giữ gìn những gì các anh chị để lại.
Anh muốn có một lúc, anh có thì giờ viết về Vũ Kiện, anh chàng hút pipe tối ngày, AT, người vợ anh VK chung tình, đi Canada cùng lúc với anh. 
Anh cũng nhớ Xuân Hoa trước khi về Lacerte và Trần Bình Minh, một kiện tướng Đất Lạnh.
Cả Truyện Premier Amour của Yvan Tourgueniev.

À présent que les ombres du soir commencent à envelopper ma vie, que me reste-t-il de plus cher que le souvenir de cet orage matinal et fugace.

Cả bao nhiêu người nữa, có người về đi mò tôm và rất nhiều người bây giờ chỉ đi câu tôm hay bắt cá, mà chỉ bắt cá kình. Et la vie continue
La vie se ressemble.

Attendez que je me rappelle.

Đó là những gì anh muốn nhắc cho những người Đất Lạnh, mai sau dù có bao giờ.
Những chuyện còn lại, chỉ là … , các bạn trẻ ĐL hiểu không?

Năm tới, tháng chín,  anh về, ngồi bên những cổ thụ, đại thụ và hoa lá thì các bạn nhớ, hơn 49 năm mới có Đất Lạnh bây giờ.
Các em giữ Đất Lạnh.
Vì đó là những gì các anh các chị để lại cho các em.

Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Có một bài nào, Lệ Thanh hát,
Chiều nay có một người mãi mãi đi tìm.
Em còn nhớ đọan tiếp không?

Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Nhưng Mùa Thu này cho em.
Bao giờ em đến?

Bao giờ, em về.

Bây giờ anh mong, đến lúc này trong tuổi đời.

Tôi Nhìn Những Mùa Thu Đi nhưng vẫn còn Những Mùa Thu Đến.

Tôi mượn tựa và một câu anh bạn viết mấy năm rồi, bạn gọi là pastiche.

Đất Lạnh và tôi, hôm nay.

Tôi viết những lá thu vàng, lá thu đỏ và câu truyện, tình đầu, tình cuối hay tình bất cứ khi nào.
Rồi kết luận không biết là thật hay mộng mơ:

Anh,
Em nghe tiếng anh gọi, em sẽ về.
Hôm nay em về.
Những ngày Thu của năm nào.
Không có anh, em còn có ai.

Thì ra mấy mươi năm,
Tôi Nhìn Những Mùa Thu Đi.
Năm nay, thấy có Thu Về,

Thôi,
Dù chỉ có một lần.
Dù  chỉ là nhung nhớ.
Dù chỉ là mộng thôi.

Điệp.

10/2013.



Nhìn chiếc lá rơi

Ngoài trời, gió đã bắt đầu se lạnh. Có những ngày mây xám, lơ lửng, như chẳng buồn bay. Mưa đến rồi đi, như người lữ khách. Có hôm người lữ khách lại quay về, mang trên mình chiếc áo xanh ngắt màu da trời. Nắng không còn gay gắt và mặt trời đã bắt đầu xuôi Nam.
Bây giờ trời đã sang Thu. Ngoài kia, ánh nắng đang lung linh trên hoa cỏ nhuộm màu. Mùa Thu bây giờ không còn cái ngỡ ngàng của mùa Thu gần 50 năm về trước, trên đất lạ, trong náo nức chưa biết ngày sau sẽ ra sao. Nhớ mùa Thu năm đầu, hai đứa dẫn nhau vào rừng phong rực màu, dẫm chân trên xác lá xào xạc, như con nai vàng trong Tiếng Thu. Ngày đó trời không lạnh lắm, nhưng có kẻ đã lợi dụng tình thế để ghì người kia vào lòng, nói khẽ “để anh sưởi ấm cho em”. Từ đó, hai người mỗi năm lại dẫn nhau đi tìm kỷ niệm thuở ban đầu, chụp hình lá vàng mùa Thu để biết mỗi năm mình già thêm một chút. Ôi, mắt ai bao giờ cũng dịu dàng như mắt nai.
Mới đó mà đã gần 50 năm, từ ngày hai đứa đặt chân đến xứ này. Đất trời đã thay đổi quá nhiều. Mái tóc xanh ngày nào đã ngã màu như lá mùa Thu, không biết từ bao giờ. Bon chen với cuộc sống, người ta đã quên đếm thời gian. Đến một ngày bừng tỉnh giấc mơ, mới tiếc tuổi trẻ đã qua từ bao giờ. Nay, thêm môt mùa cây lá đổi màu, thêm một mùa lá rơi.
Chợt một chiếc lá vàng rơi, ngập ngừng bay trong gió, như còn luyến tiếc chưa muốn lìa cành. Rồi lá sẽ nằm yên trên đất, hay sẽ bị cơn gió lốc cuốn đi, để mãi mãi xa lìa cành cây mẹ. Xót xa cho lá khi đến phút cuối cũng bị vập vùi. Mẹ Lá ơi, sao người lại thản nhiên đứng nhìn không chút tiếc thương. Hay Mẹ Lá có quá nhiều con và năm nào cũng chứng kiến cảnh chia lìa như vậy, nên đối với người chuyện này là chuyện không đáng quan tâm? Mà cũng có lẽ Mẹ Lá đang ngậm ngùi, không nói nên lời.
Có ai từng nhặt lá vàng, và đi tìm trong đó nét đẹp tinh anh của lá ngày còn mới lớn? Có ai nhìn hình một cụ già mà tìm được trong đó vẻ đẹp của tuổi xuân thì? Nét đẹp thật sự, mãi mãi sẽ không bao giờ tàn phai. Em, qua những tấm ảnh chụp từ bao năm qua, nét đẹp của em chưa hề thay đổi, trong anh. Trong mắt anh, sau lằn da đầy vết chân chim, nụ cười em vẫn tươi như hoa, như ngày nào em đã làm say đắm lòng anh. Giọng nói ngọt ngào của em vẫn ngọt ngào đến phút cuối. Trong thinh không anh nghe như chừng em đang thỏ thẻ với anh “yêu anh thật nhiều”.
Nhìn chiếc lá rơi, anh thấy nhớ em nhiều, thật nhiều. Nhớ mãi ngày anh vuốt mắt em lần cuối. Bàng hoàng. Ngày đó, anh đau lắm. Anh chắc em cũng như anh. Em đi rồi, hồn em có còn vấn vương, đau xót nữa hay không? Còn anh, anh một mình khắc khoải với kỷ niệm; càng nghĩ, càng đau.
Cây phong anh trồng sau nhà là để tuởng nhớ em. Trong lòng đất dưới gốc cây là tro cốt của em; em sẽ vẫn mãi ở bên anh. Anh ấp yêu cây phong như ngày nào anh ấp yêu em. Cây phong giờ đã cao hơn hai thước. Có người hỏi anh cây bao nhiêu tuổi; anh trả lời “cây không có tuổi” vì thời gian đã ngừng lại trong anh, ngày em vĩnh viễn ra đi. 
Bây giờ, cây phong đã thay màu lá. Nhìn chiếc lá rơi, anh ngậm ngùi. Đơn côi, thui thủi một mình. Còn một chiếc lá đang phất phơ trước gió, chưa biết khi nào mới đến lượt mình.

Chờ anh với, nghe em. 


Mùa Thu Hà Nội, mùa Thu Saigon, mùa Thu Montréal

BTP
Hôm nay đang là mùa Thu ở Montréal nên tôi muốn tâm sự một chút về những nhận xét và cảm nghĩ của tôi về mùa Thu.
                                                                                                                        
Tôi được sanh ra  ở Hà Nội và sống ở đây mười bảy năm. Năm 1954 gia đình tôi di cư vào Saigon và tôi sống ở đó hai mươi mốt năm. Tôi đến Montréal tháng 5 năm 1975 và ở đây cho đến ngày hôm nay. Vì thế, tự nghĩ là mình đã từng sống khá lâu tại Hà Nội, Saigon và Montréal nên đã có nhiều lần được: “Nhìn những mùa thu đi…’’ tại những nơi này. Tôi muốn ghi lại một vài cảm xúc cũng như kỷ niệm tại ba nơi này về mùa Thu.

Khi bắt đầu biết được có sự hiện diện của mình ở trên đời, tôi chỉ là một bé trai khoảng 3, 4 tuổi. Bố mẹ tôi đông con và chúng tôi chưa đến tuổi đi học, cho nên tôi và cô em gái kém tôi một tuổi được bố mẹ tôi đưa về quê sống với ông bà Nội và Ngoại với sự trông nom của một bà vú già. Sau này chúng tôi khi ở quê, khi ở Hà Nội tùy theo nhu cầu của gia đình cũng như việc học hành.

Quê tôi là làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Gọi là quê nghe rất xa xôi nhưng thực ra làng quê tôi chỉ cách Hà Nội có chín cây số đường xe chạy. Đứng trên đê làng, tôi có thể nhìn rõ đèn điện trên con đường bờ sông của thành phố Hà Nội. Thực ra làng tôi chỉ cách Hà Nội có một con sông, đó là sông Hồng Hà.

Giống như nhiều ngôi làng khác ở miền Bắc Việt Nam, làng tôi có một nếp sống rất êm đềm. Làng tôi rất giống như được mô tả trong bài hát: “Làng Tôi’’ của nhạc sĩ Chung Quân: “Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh, có sông sâu lơ lững vờn quanh, êm xuôi về Nam…’’
           
Làng tôi nằm ở mé trong của con đê bên bờ sông Hồng Hà. Khúc đê này chạy dài từ tận đâu thì tôi không biết rõ nhưng biết được có đoạn từ đầu cầu Long Biên tới quá Tỉnh Hưng Yên.

Trong những năm còn nhỏ tôi được sống giữa thiên nhiên đầy cây cỏ.  Bố mẹ tôi có một trang trại rất lớn với nhiều cây ăn trái đủ loại và ba cái hồ trồng sen rộng mênh mông nên tôi có dịp thấy những đổi thay của vạn vật quanh mình. Vì hồi ấy còn quá nhỏ nên hầu như tôi chẳng có một chút ý niệm nào về bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông! Tuy nhiên khi mùa Thu đến, khí trời bắt đầu se lạnh và những cơn gió nhẹ đưa khí lạnh luồn lách qua làn áo mỏng làm tôi run rẩy, co ro thì hiểu là có cái gì đổi thay trong không gian quanh mình. Mới hôm nào hoa  sen còn nở đầy giữa đám lá  xanh, thắm mặt hồ. Mùi thơm của lá sen vương toả rất nhẹ trong không gian và thường tan biến nhanh khi mặt trời bắt đầu lên cao. Muốn thấy được cái mùi thơm nhè nhẹ này, cách  thực tế nhất là tìm uống phần nước mưa còn đọng trên hũng của những đài lá sen  vào những buổi sớm. Nước thật ngọt, mát và thoang thoảng thơm mùi lá sen. Khi mùa Thu tới và khi khí trời đã khá lạnh cảnh hồ sen ôi thật là tang thương! Mới hôm nào lá còn xanh, hoa còn đỏ đầy hồ, thì hôm nay  hoa lá ấy đã bị khô quắt, khô queo mang một màu xám xịt. Nước hồ hôm nào mát rượi, nay đã trở nên lạnh lẽo và xa cách vô cùng. Thu đến, cây cối trên mặt đất không  thấy thay đổi nhiều, có chăng chỉ một vài loại cây ít chịu được khí lạnh nên có chút thay đôỉ về màu sắc  nhưng không phải toàn diện cả một cây, hay cả một vùng như ở vùng ôn đới.
  
                                                                       
Một trong số những cây bị thay đổi màu sắc một phần mà không toàn diện là cây Bàng. Khi mùa Thu đến, một số nhỏ lá Bàng bị đổi màu và rụng xuống. Những ngày Thu xa xưa ấy, tôi thường thơ thẩn tìm một vài cái lá Bàng rụng, chọn những lá có màu sắc đẹp nhất, to, dầy và dĩ nhiên phải lành lặn. Lá Bàng thường khá dày và khí lạnh mùa Thu đã làm cho nó chuyển sang màu đỏ ối, đỏ tiá chen lẫn vài chỗ màu vàng và có thể có những vệt màu nâu nữa. Mép lá thường co lại về phía lưng lá, làm phần bụng lá ưỡn ra trông rất đày đặn. Như một nghệ nhân tí hon, tôi dùng tay xoa bụng lá vào áo len nhiều lần và chỉ  vài phút sau, tôi có những tấm lá Bàng tuyệt đẹp vì màu sắc rung cảm và mặt lá bóng lộn như một món đồ trang sức. Hạnh phúc là đây: là đã có trong tay những kỳ công tuyệt vời của tạo hóa với sự đóng góp nhỏ nhoi nhưng tài ba của nghệ nhân tý hon này. Sân trường làng tôi có tới sáu cây Bàng già. Mỗi cây tôi đều đặt cho một cái tên. Tôi thích nhất là cây Bàng «Đường» vì trái của nó rất ngọt, rất ngon. Khổ nỗi, gốc cây này to và chỉ có cành ở mãi trên cao nên không có cách nào leo lên được. Thôi thì chờ ăn trái Bàng rụng vậy. Cũng ngon lắm đấy nhưng trong lòng có hơi ấm ức. Tôi thường dùng gạch hay đá đập vỡ từng hột Bàng để lấy cái nhân trắng ở bên trong. Phải nói, cho đến tận bây giờ tôi chưa thấy một thứ hột nào ngon như cái nhân trong hột trái Bàng.

Sân trường mùa Thu khô queo và nứt nẻ như bị hạn hán. Những gốc Bàng với đám rễ túa ra và nhô lên khá cao khỏi mặt đất, tạo thành những hốc tối làm cho cái sân trường đó vốn dĩ rất thân thương với tôi nay hình như xa lạ. Những hạnh phúc nhỏ nhoi ấy của tôi đã chấm dứt vào một ngày đầu Thu khi tôi bị chuyển ra Hà Nội để đi học.

Tại Hà Nội, gia đình tôi cư ngụ trong một căn nhà gạch hai tầng trên con phố Lò Sũ. Đây là một con phố tương đối nhỏ. Bố mẹ tôi ở tầng dưới, phía trước là cửa hàng đồ gỗ. Tất cả anh em chúng tôi ở trên lầu. Tôi theo học ở một trường tư thuộc nhà Chung cạnh nhà thờ Lớn, Hà Nội.

Đầu phố tôi ở là phòng Thông Tin ở bờ hồ Hoàn Kiếm. Khi đi học tôi thường đi một quãng bờ hồ, phía có ga xe điện rồi quẹo qua phố Hàng Trống, phố nhà Thờ là tới trường. Cũng có khi tôi đi phía ngược lại của bờ hồ, qua cửa đền Ngọc Sơn, qua nhà Bưu Điện, quẹo phải qua cửa bóp cảnh sát Hàng Trống, quẹo trái vào đường nhà thờ là tới trường. Lối đi này xa hơn một chút nhưng phong cảnh đẹp hơn.

Những năm đó mải vui đời học trò nên tôi cũng chẳng để ý đến thời gian cũng như các mùa Xuân, Hạ ,Thu , Đông gì cả. Một hôm cô em gái tôi nói là muốn tôi đưa nó ra bờ hồ để nhặt mấy cái búp đa. Búp đa là cái áo tơi che các lá non khỏi bị tổn hại trong tiến trình hình thành những cái lá. Vào đầu Thu những cái áo tơi gọi là búp đa rơi rụng đây đó quanh gốc cây. Trẻ con, nhất là các bé gái ở tuổi em tôi thích nhặt những búp đa này. Thuở ấy những đồ chơi, đồ giải trí cho con nít khá hiếm, vả lại chúng tôi làm gì có tiền mua những thứ cầu kỳ mà chơi. Con nít nhặt búp đa và dùng móng tay hoặc mũi dao nhỏ tách hai lớp vỏ thành hai cái màng dính nhau ở mép vòng quanh của búp và dùng hơi thổi cho nó căng phồng lên. Cái thú chỉ đơn giản là thế thôi nhưng thời ấy hình như cô học trò nào cũng chơi như vậy. Thời tiết mùa Thu Hà Nội cũng khá lạnh và khô mà ta hay gọi là hanh. Mùa Thu có nắng đẹp mà lạnh, người ta gọi một cách thi vị là Nắng Hanh Vàng. Nếu đã từng là dân Hà Nội thời đó, ai cũng biết có một cái thay đổi  rất dễ nhận ra vì rất  phổ biến đó là màu sắc rực rỡ của  những chiếc áo len của các cô gái Hà Thành trên đường phố Hà Nội mỗi độ Thu về. Đúng ra, thuở đó mọi người ăn mặc không diêm dúa, đa dạng như ngày nay cho nên màu áo len của các cô làm không khí thành phố dường như có hội vậy.
   
Tôi dẫn em tôi ra cái cây đa ngay gần xế cửa nhà Bưu Điện, không xa đền Ngọc Sơn là bao. Trước khi đến chỗ cây đa, chúng tôi thấy dưới gốc cây Lim (có người gọi là xà cừ. Thực ra Lim và xà cừ là hai loại cây cùng một họ. Riêng tôi không phân biệt nổi hai loại cây này) có khá nhiều sống lá cây gỗ Lim rơi rụng khắp đó đây. Những sống lá rụng xuống cũng vì khí lạnh mùa Thu. đây có  ba cây Lim cao chót vót. Gốc cây cỡ hai người ôm không hết. Những sống lá này khá dài, khoảng sáu chục phân, trông thật thích mắt. Sống lá này rất dai, không thể bể gãy được.Tự nhiên nhìn đám sống lá này, tôi thấy rất thích nên nhặt khoảng một chục cái dù chẳng biết để làm gì, trước khi đưa em tôi tới chỗ cây đa. Sau khi em tôi nhặt được một nắm búp đa, chúng tôi dẫn nhau trở về, lòng khấp khởi mừng vui. Chúng tôi tung tăng trong  những bước chân Sáo vì cả thành phố chan hòa ánh nắng Hanh Vàng.
     
Khi vào nhà, tôi bị gọi lên lầu vào một góc nhà. Một người lớn trong nhà không nói một lời rút một sống lá Lim mà tôi vừa nhặt về, vụt tôi túi bụi vào lưng và bọng chân. Tôi còn bị những cú đá bằng giày Bottine vào tibia (phần xương phía trước bọng chân). Cho đến mãi tận ngày hôm nay, tôi cũng không hiểu tại sao tôi bị đối xử như vậy. Cũng may thể chất tôi không đến nỗi tệ cho nên chân chưa gãy. Cái niềm hạnh phúc nhỏ nhoi và đơn sơ của chúng tôi trong một ngày mùa Thu đẹp tuyệt trần đã đưa đến cái không may và vô lý đến cùng cực. Bố mẹ tôi không hề đánh con cái, làm gì các cụ cho quyền người khác đánh tôi như vậy. Đây là sự lạm quyền nham nhở của một con người bệnh hoạn. Vả lại các cụ cũng đâu có biết tôi bị hành hạ như vậy! Đây cũng không có một chút gì gọi là giáo huấn vì ngay cả bị đòn còn chẳng biết tại sao! Loại đòn này tôi thường phải chịu một cách vô lý nhưng  lần này  nặng hơn. Có lẽ tại tôi chưa đủ sức tự vệ trước một con người lớn hơn tôi rất nhiều. Hắn có cái thú hành hạ người khác và tôi  chỉ là một con mồi ngon! Cái kỷ niệm tồi tệ này trong một ngày Thu tuyệt đẹp của Hà Nội chẳng hiểu nó còn đeo bám tôi tới tận bao giờ!

Ngày hôm sau, thấy tôi ngồi buồn thiu trong một góc nhà, em tôi hỏi tôi: Ông có đau không? Tôi trả lời: Tao không đau đâu nhưng tao tức lắm. Nó nói nhỏ: Sao tôi ghét thế không biết! Chúng tôi hiểu cái người nó ghét không phải là tôi.

Cơm, gạo làm tôi lớn phổng. Tôi đua đòi bạn bè tập tạ nên không bao lâu sau thân hình nở nang. Từ đó tôi chỉ thỉnh thoảng bị hục hặc một chút nhưng không bị đối xử như trước nữa.

Cuối năm 2005 tôi về thăm Hà Nội. Tôi đi tìm mấy cây Lim cũ nhưng nó đã bị chặt mất từ bao giờ, không còn chút dấu vết nào nữa. Nếu nó còn đó, chắc chắn nó cũng đâu có biết tôi đã bị đau đớn vì những sống lá của nó. Tôi đi một vòng bờ hồ để quan sát thì thấy chỉ còn hai cây Lim ở gần bót Hàng Trống. Hai cây này rất nhỏ nếu so với mấy cây Lim ngày xưa mọc xế cửa nhà Bưu Điện Hà Nội. Ôi vật đổi, sao dời và cuộc đời tôi cũng đã thay đổi rất nhiều.
    
Mùa Thu ở miền Bắc và miền Trung của đất nước tôi có những đổi thay về thời tiết và cây cỏ khá rõ rệt. Ngay cả những thanh âm thường thấy ở mùa Hè như tiếng ve hay ngay cả tiếng chim hót cũng đều tắt lịm khi mùa Thu đến. Nói đến mùa Thu trên phần đất Bắc và Trung mà không nhắc đến cái nỗi buồn man mác, vô cớ của con người mà ta thường cảm thấy khi Thu về là thiếu sót vô cùng. Xuân Diệu ghi lại cái cảm xúc lâng lâng buồn không nguyên cớ trong một chiều Thu bằng một bài thơ trong đó có hai câu:

Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn…

Bài thơ Thu Điếu hay còn gọi là bài Mùa Thu ngồi câu cá của cụ Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tuyệt trần, có một không hai vì cụ gói ghém tất cả: khung cảnh,màu sắc, cảm xúc,tâm trạng và cả thanh âm  của mùa Thu:

Ao Thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ Trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Năm 1954 gia đình tôi di cư vào Nam sau Hiệp Định Genève 20/7/1954. Bố tôi làm công chức và khi vào Saigon được bổ về làm trên phi trường Tân Sơn Nhất. Sở mới của bố tôi nằm trong vòng rào phi trường Tân Sơn Nhất, chuyên lo xây dựng tất cả các phi trường trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Hồi đó người Pháp rút lui khỏi Việt Nam nên có nhiều chỗ làm trống và nhiều căn nhà cấp cho công chức Pháp được trả lại. Bố tôi được cấp hay nói cho đúng tự cấp cho mình một căn. Nhà và vườn rất rộng, khá khang trang, nhất là có rất nhiều cây hoa cũng như cây lớn. Căn nhà chúng tôi ở, nằm giữa một vùng rộng lớn nhiều cây cỏ nhưng có rất ít nhà ở cho nên tôi có nhiều cơ hội để thấy mùa Thu đã đến với cây cỏ và làm thời tiết đổi thay như thế nào ở Saigon.


Ai đã từng ở miền Nam nước Việt chắc cũng biết khí hậu ở đây chỉ có hai mùa: Mùa nắng và mùa mưa. Mùa mưa từ tháng năm tới tháng mười và mùa nắng từ tháng mười một đến tháng tư. Vì thế khi trái đất quay quanh mặt trời, thì mùa Thu vẫn có ở mọi nơi nhưng ở miền Nam phải có cảm xúc nhạy bén và một chút quan tâm về thời gian ta mới thấy được một chút khang khác trong không gian khi mùa Thu về. Mùa Thu cây cối vẫn thấy xanh tươi, chẳng thấy rõ được cái tĩnh lặng, cái khô héo, cái sơ xác điêu tàn của vạn vật nhất là của cây cối... Vẫn biết lá không tồn tại mãi trên cây nhưng sự đổi thay diễn ra chậm và âm thầm, không đồng loạt, nhất là màu lá gần như không thay đổi cho nên chẳng ai để ý là miền Nam cũng có mùa Thu. Cũng không nhất thiết lá cây chỉ rụng hàng loạt trong mùa Thu. Khi mùa Xuân đến, cây me trổ lá rất nhiều. Lá me nhỏ và có màu xanh nhàn nhạt, trông tựa như những hạt cốm vòng. Cây me có có những tán lá. mỗi tán lá có những tàu lá. Tàu lá me nhỏ như cọng tăm, dài khoảng mười phân Tây. Lá me mọc đối diện nhau trên những cọng của tàu lá tạo nên hình dạng hơi cong cong rất đẹp mắt có thể ví như hình dạng lông mày người phụ nữ. Vào mùa Xuân, vạn vật trổi dậy sau những tê tái của mùa Đông, thì những lá me non như quá sung sức, quá vội vàng, trổ ra rất nhiều. Chúng chen vai thích cánh nhau, tranh sống. Điều này làm cho rất nhiều lá me bị rụng non. Đôi khi có rất nhiều búp lá non cũng bị rụng. Phải nói là lá me non vào đầu Xuân rụng rất nhiều. Khúc đường Nguyễn-Bỉnh-Khiêm, từ cổng chính của Thảo Cầm Viên Saigon chạy dài qua cửa trường Nữ Trung Học Trưng Vương cho đến tận khúc quanh với bờ tường sở Ba Son, cây me được trồng rất nhiều. Mùa Xuân nào cũng vậy lá me non xanh như những hạt cốm rơi đầy khúc đường này, cho dù chỉ cần một cơn gió nhẹ. Lá me non rơi nhiều đến độ thoạt nhìn ai cũng ngỡ người ta phơi cốm trên hè phố. Lá me rụng nhiều làm những cô nữ sinh của trường Trưng Vương đôi khi cũng phải khó chịu.

Gió ơi, gió hãy ngừng đi
Lá me rơi rụng khác gì…cốm bay
Gió đưa me lá loay hoay
Chui vào kẽ tóc, dính đầy áo bay
Vụng về, tay ngọc xua ngay
Cặp nâng quá trán, mày dài nhó, nhăn
Gió ơi, gió chớ hung hăng
“Ai” mà giận dữ gió hằng vui sao?...

                                                   (BTP)

Không rõ hàng cây me này do ai đã quyết định cho trồng nhưng rõ ràng rặng me này đã tạo được một khung cảnh nên thơ, tươi mát rất đúng chỗ. Lá me non rụng nhiều nhưng chẳng hẳn trời đã sang Thu !

Mùa Thu Saigon lá me cũng đổi màu và cũng rụng. Những cây có dạng lá giống như lá me như cây Điệp, cây Phượng Vỹ…lá cũng đổi màu và cũng rụng khi Thu về. Có lẽ lá những cây này nhỏ, số lượng lá rụng không nhiều nên khó gây sự chú ý của mọi người .                    

Ai cũng biết theo Dương Lịch thì mùa Thu bắt đầu khoảng 21 tháng 9 và chấm dứt vào khoảng 21 tháng 12 mỗi năm. Như vậy mùa Thu vừa nằm trong mùa mưa và vừa nằm trong mùa nắng. Không khí mùa hè ở Saigon thì vừa nóng lại vừa ẩm. Cái oi bức của Saigon trong những ngày giữa mùa Thu  đã giảm đi  và ban đêm trở nên mát mẻ hơn nhiều. Người ta chỉ nghĩ là trời hôm nay mát hơn mấy hôm trước nhưng chẳng nghĩ rằng Thu đã đến rồi. Mùa Thu của Saigon chỉ có chút thay đổi vì nhiệt độ hàng ngày hạ xuống được vài độ. Chúng ta không thể mong chờ ngọn gió heo may luồn lách và đưa cái không khí se se lạnh vào cơ thể mình  qua làn áo mỏng. Nắng thì ở đây lúc nào cũng sẵn có nhưng chờ cho có được cái khô ráo, cái se se lạnh trong cái nắng cũng còn khá rực rỡ là khó lắm! Cũng khó có thể nhận thấy nắng hôm nay có là nắng hanh vàng hay không. Nếu có một chút quan tâm, ta sẽ thấy nắng hôm nay có dịu hơn, nhưng thiếu đi cái khô khan, cái điêu tàn và cái se se lạnh thường có của mùa Thu. Nếu mong chờ một mùa Thu có nắng hanh vàng và có gió heo may ở Saigon thì chúng ta đang mong chờ một điều không thể có, ngoại trừ những đổi thay khí hậu như hiện nay có thể sẽ cho phép chúng ta trồng được cây cọ trên đường phố Montreal và biết đâu đấy sẽ chẳng có tuyết ở Cà Mau. Nếu chuyện tưởng tượng trên thành hiện thực thì lúc đó chúng ta ở đâu nhỉ? Rõ là khéo lo!!! Tóm lại trong một cái nhìn bao dung thì Saigon của tôi có mùa Thu. Trong cái nhìn khắt khe Saigon chưa bao giờ có mùa Thu cả. Gió heo may và nắng hanh vàng là những thứ quá tuyệt diệu cho một mùa Thu đầy lãng mạn, nên thơ nhưng tôi không hiểu có bắt buộc phải có nó thì mùa Thu mới là mùa Thu. Viết đến đây tôi thấy tôi và ông Ba Phải có vẻ đồng quan điểm với nhau lắm lắm!

Mùa Thu Saigon có những ngày trời mưa tầm tã. Ngồi trong nhà nhìn ra mưa, ta bỗng có cái cảm giác quạnh hiu và thiếu vắng một một cái gì, một bóng hình nào đó. Cái u buồn, cái hiu quạnh do mùa Thu mang đến cho tâm hồn mẫn cảm của một con người đa sầu, đa cảm có thể làm ta lây lan cái cô đơn, hiu quạnh một cách dễ dàng. Hãy nghe Đặng-Thế-Phong đưa ta vào thế giới của âm thanh và khung cảnh Thu trong “Giọt mưa Thu’’:                                  
« Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi.
Trời lắng u buồn mây hắt hưu ngừng trôi.
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa Thu ai khóc ai than rằng...»

Những ngày Thu Saigon có nắng thì phải nói không có nắng Hanh Vàng mà cũng chẳng có gió heo may như ở Hà Nội. Tuy nhiên nắng Thu của Saigon cũng có cái đẹp của nó. Nó có thể làm hồn ta lãng đãng, chơi vơi, chập chờn và làm ta cảm thấy có một nỗi buồn vô cớ xâm chiếm tâm hồn mình, làm ta hầu như quên cả thực tại nhộn nhịp của Saigon.

Những đêm Thu Saigon mà trời không mưa thì bầu trời trong vắt. Bầu trời hầu như rất thấp và có rất nhiều sao, không thể đếm xuể. Bầu trời Thu Saigon khác rất nhiều nếu so sánh với Montréal. Mùa Thu Montréal về đêm nhìn  lên trời chỉ thấy hun hút như cao lắm, xa thăm thẳm. Cái cõi mênh mông, hun hút đó rồi ra chúng ta cũng sẽ phải đến thôi. Đặc biệt nhìn bầu trời Thu Montreal tôi chỉ thấy lác đác vài ngôi sao! Không lẽ nền trời tại Montreal xa hơn nền trời Saigon thân thương của tôi hay sao?

Ai bảo Saigon không có mùa Thu?

Từ ngày sang sống ở Montréal, tôi có một ý niệm rất rõ về bốn mùa, nhất là mùa Thu và luôn luôn thấy thời gian trôi qua rất nhanh.

Vào cuối tháng 9, tức là đầu mùa Thu, lá của một vài loại cây đã bắt đầu đổi màu. Những cây có lá đổi màu sớm thường là đổi sang màu vàng. Nhưng hình như mỗi cây cho ta một màu vàng khác nhau dù rằng cùng một giống. Tôi thích nhất loại lá vàng màu tươi và trông như có vẻ mỏng hơn và hơi trong trong. Chậm hơn cỡ cả tháng trời lá mới đổi màu là cây Phong. Cây Phong cho ta rất nhiều màu khác nhau. Lá phong có thể có màu đỏ tươi, có màu đỏ tía, có màu vàng, thôi thì đủ màu. Nhiều khi trên cùng một cây lại có những đám lá còn xanh chen lẫn những đám lá đỏ, lá vàng. Mùa Thu ở Montréal đúng là thiên đường của màu sắc, do lá cây đổi màu. Có những nơi quanh Montréal, nổi tiếng vì những khu rừng có nhiều lá đổi màu rất đẹp như Mont Tremblant, St Sauveur v.v. Vào mùa lá đổi màu du khách đến chơi mấy nơi này rất đông. Dân Montréal thường cũng góp phần rất đông trong đám du khách đi coi …lá.

  
Mùa Thu còn làm một vài loại cây không phải chỉ có lá mà ngay cả những cành cây cũng thay đổi màu nữa. Một vài giống cây khi mùa Thu tới, những cành cây trở nên có màu xậm, đen mun, trông giống như được bọc bằng nhung đen, tuyệt đẹp.
  
Cây cỏ khi Thu về đều trở nên héo tàn, xơ xác thậm chí khô quắt. Mặt đất cũng xác xơ khô queo. Mùa Thu cũng có hoa nhưng chỉ là những bông hoa lẻ loi giữa cảnh tàn tạ nên trông rất lạc lõng, tội nghiệp và chẳng ai có lòng thưởng thức nó. Mùa Thu cũng có nắng nhưng trời càng lạnh khi nắng đẹp. Đây chính là nắng hanh vàng nhưng lạnh hơn mùa Thu Hà Nội của tôi nhiều. Mùa Thu Montréal dĩ nhiên cũng có gió nhưng không biết tôi có nên gọi là gió heo may hay không vì thường gió khá mạnh và quá lạnh, không phải cái gió hây hây của Hà Nội. Cụ Nguyễn Du có câu văn bất hủ:

... Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…
     
Cảnh vật trong tâm trạng của một người buồn có thể cũng đẹp lắm đấy nhưng chắc chắn không thể nào là cảnh vui được.
     
Cảnh mùa Thu không thể là cảnh vui. Mùa Thu là mùa thiên nhiên đi vào tĩnh lặng. Làm như bao nhiêu cái thanh âm ồn ào của những ngày hè cũng bị cái khí Thu đưa vào tĩnh lặng mất rồi. Thu về, vạn vật đổi thay rất nhanh. Bao nhiêu cái tươi tốt, rực rỡ của mùa Hè tan biến đi nhường chỗ cho những tan hoang, xơ xác, điêu tàn. Cái giá lạnh đầu Thu thường làm cho ta cảm thấy  hiu quạnh, cô đơn, làm như quanh ta chẳng còn có ai. Cái lẻ loi ấy khiến ta thèm nghe một tiếng nói, thèm nói một lời, thèm gập gỡ một người bạn, một người quen. Phải chăng mùa Thu đã mang đến cho mọi người một tâm tình cởi mở hơn, rộng lượng hơn và do đó cũng là lúc thuận lợi nhất để con người biết tha thứ và thương yêu nhau. Cảnh buồn đôi khi lại mang đến cho chúng ta cái ấm áp của tình người. Có phải vì vậy mà nhà văn Trà Lũ gọi Canada là xứ lạnh tình nồng đó chăng?
                                      
Montréal một ngày đầu Thu 2013


BTP