Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu (1900-1976)
Hồ Trọng Hiếu sinh năm 1900, nhà nghèo, sau khi học xong trung học
tại trường bảo hộ nổi tiếng Trường Bưởi, (sau đổi tên là trường Chu Văn An, bên
cạnh Hồ Tây, phía bắc Hà Nội), ông không tiếp tục học lên cao, mà đi làm thư ký
sở Tài Chánh để kiềm tiền nuôi mẹ, cô, và bốn em ăn học.
Năm 1920, gập Nguyễn Tường Tam đến làm cùng sở. Hai người thành bạn
tâm giao ngay, trao đổi những điều tâm đắc, những việc văn chương đang thai
nghén… khuyến khích, an ủi lẫn nhau
Nguyễn Tường Tam là người có chí lớn, chỉ
làm tạm bợ ở đây kiếm chút vốn, quyết sẽ đi học nữa, sẽ làm nhà văn, sống bằng
ngòi bút của mình, sống bằng một nghề tự do ngòai vòng kiềm tỏa. Dần dà Nguyễn
Tường Tam tìm thấy sở đắc của Hồ Trọng Hiếu, đã khuyên : “Anh khá đấy, nên làm
thơ hài hước đi, anh có khiếu về trào phúng đấy” Một lời đã biết đến nhau. Câu
nói của anh Tam đã thấm vào tâm trí Hồ Trọng Hiếu.
Hơn chục năm sau, 1932, Nguyễn Tường Tam
sau những năm tháng bôn ba học hỏi, lấy tên hiệu là Nhất Linh, dự tính mở tờ
báo Tiếng Cười. Hồ Trọng Hiếu tới giúp sức sửa soạn báo cùng anh em. Nhưng thực
dân Pháp không cho phép ra báo. Xoay kế khác, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ báo
Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh sắp đóng cửa, tụ họp các anh em, bạn hữu, những
người viết mới, biến đổi Phong Hóa cũ thành một tờ báo mới lấy khôi hài làm chủ
đề, đưa ra một cách viết mới, một cách nhìn ra xã hội mới …
Nhóm đã thành công lừng lẫy, tạo nên nền
móng cho văn học Việt Nam: Họ đã tạo ra một cuộc cách mạng văn hóa.
Hồ Trọng Hiếu lấy bút hiệu Tú Mỡ, ông phụ
trách mục Giòng Nước Ngược, thơ hài hước đùa cợt chế diễu, nổi tiếng một thời.
Tú Mỡ là chuyên viên cười của Phong Hóa
Ngày Nay trong suốt thời gian hoạt động văn học từ 1932 tới 1940. Có chân trong
Tự Lực Văn Đoàn từ ngày thành lập. Năm 1934, ngày 27 tháng 5, Tú Mỡ viết mấy
câu cám ơn người “đã biết đến ta”:
Ít
lời lẽ ngang phè,
Mấy
vần thơ lỗ mỗ
Tặng
anh Nguyễn Tường Tam
Đáp tấm ơn tri ngộ
Tác phẩm của Tú Mỡ thời đó, gồm vào hai tập
thơ trào phúng: Giòng Nước Ngược I, 1934, và Giòng Nước Ngược II, 1941, nhà
xuất bản Đời Nay, Hà Nội. “Hai tập thơ có cái giọng bình dân rất trong sáng
chúng ta vốn ưa thích xưa nay: Giọng đùa cợt lẳng lơ của Hồ Xuân Hương, giọng
nhạo đời của Trần Kế Xương, giọng thù ứng ý nhị của Nguyễn Khắc Hiếu, giọng
giao duyên tình tứ của Trần Tuấn Khải, từng ấy giọng thơ, nay ta thấy cả trong
hai tập thơ của Tứ Mỡ. (Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại)
Khái Hưng trong bài Tựa Giòng Nước Ngược
thêm vào: “Mà câu văn của Tú Mỡ cũng như của Tú Xương, của Hồ Xuân Hương, cũng
như những câu ca dao tục ngữ, quả thực hoàn toàn có tính cách Việt Nam”.
1947, Tú Mỡ đi kháng chiến chống Pháp,
thường nhớ đến bạn cũ: “Kể về công, các anh em đã thực hiện được mục đích của
đoàn, điều chính là làm giầu thêm văn sản trong nước, đã có một đóng góp đáng
kể vào văn học Việt Nam, tạo cho đoàn một tiếng tăm vang dội một thời, một
thành tích mà các văn đoàn đời sau không đạt được, một chân giá trị riêng trong
một giai đoạn nhất định, mà giới văn học ngày nay và ngày mai phải công
nhận.”(Hồi Ký của Tú Mỡ, Láng, 12 tháng 8, năm 1969)
Tú Mỡ và Thế Lữ sau này vẫn là đôi bạn tri
kỷ lui tới với nhau, một đời.
Năm 1974, bà vợ tào khang chung thủy của
ông mất, Tú Mỡ đã viết bài thơ Khóc Người Vợ Hiền, đáng kể là một trong những
bài thơ tình hay nhất:
Bà Tú ơi! Bà Tú ơi
Té ra bà đã qua đời, thực ư?
Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,
Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao.
Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,
Nào đâu bóng dáng ra vào
hôm mai…
Hai năm sau 1976, Tú Mỡ mất, hưởng thọ 77
tuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét