Mưa trong thành phố hoa niên
NGÔ NGUYÊN DŨNG
tôi về
mây ngủ quên vai áo
tha
hương bóng núi một vạt nghiêng
(tặng Phan Trọng Quỳnh, Hiroshi Hayashi
và Ðỗ Ngọc Giao, người bạn chưa liên lạc được)
Thành phố một tối
thứ bảy thượng tuần tháng mười đón tôi bằng cơn mưa ấm cuối mùa. Thời tiết
không oi bức như tôi tưởng. Ra đón tôi ở phi trường Tân Sơn Nhất có vợ chồng em
gái và anh tôi. Chúng tôi khép lại trong vòng tay nhau, rưng rưng ngậm ngùi nhận
ra những đổi thay. Vết nhăn cằn cỗi trên gương mặt anh tôi, dấu tích bệnh chứng
nan y đậm nét vóc dáng em gái tôi. Tâm tư tôi nghẹn đầy những xúc cảm thâm tình.
Nhưng anh em chúng tôi không trò chuyện được lâu vì tắc-xi của khách sạn đang
chờ. Anh tôi hẹn mai sẽ tới đón tôi ở khách sạn.
Mưa trở nặng. Cơn
mưa nhiệt đới thân thiết như những giọt lệ ấm của phố xá hoa niên tôi lăn dài mặt
kính xe, loang loáng lòng đường giăng mắc ngược xuôi xe gắn máy. Lệ của thời tiết
hay lệ đón mừng tôi trong đêm tái ngộ?
Tôi hỏi thăm người
tài-xế những tên đường.
“Xe đang chạy trên
đường Nguyễn văn Trỗi đó chú”, anh trả lời.
“Trước đó là đường
Công Lý phải không?” tôi hỏi.
“Không phải, đường
Cách mạng 1 tháng 11 chú à.”
“Còn đường nầy là Hồng
Thập Tự cũ, đúng không?” Tôi nhận ra những vòm cây vườn Tao Ðàn ủ rũ trong mưa.
Ngày xưa, ừ, ngày xưa ấy, tôi và anh mỗi trưa tan trường vẫn băng ngang đây chờ
xe chở ba tôi về nhà nghỉ trưa ghé đón.
“Ðúng rồi, bây giờ
là đường Nguyễn thị Minh Khai”, người tài-xế cho biết.
“Tôi cứ tưởng,
tháng mười đã qua mùa mưa”, tôi buông tiếng bâng quơ.
“Mấy hôm nay ảnh hưởng
bão ngoài Trung, chú à!”
Khách sạn nằm trong
một con hẻm vắng tiếng xe cộ lưu thông. Phòng ngủ cho ba người, một người ngồi
xe lăn, chật nhưng sạch sẽ. Có máy điều hoà không khí, một máy truyền hình màn ảnh
mỏng và đường nối tin mạng sử dụng miễn phí. Ðêm đầu tiên trong thành phố chôn
nhau cắt rún, tôi bồn chồn không ngủ được, lắng nghe tiếng mưa vỗ về đêm ngoài.
Khu phố nầy, hiện tại, mang danh “phố Tây ba-lô”, san sát quán xá, khách sạn
bình dân đáp ứng túi tiền giới du khách trẻ trung, năng động, là những chi tiết
tôi đọc được trong tin mạng trước đó.
Tôi chìm vào giấc
ngủ chênh vênh những suy tư, hình ảnh, tiếng động, mùi hương một góc phố nhiệt
đới lúc nào không hay. Cho tới khi, bất chợt, nghe tiếng ai đánh thức ...
Không, không phải bàn tay của ba tôi lắc vai, gọi nhỏ: “Dậy đi học con!” trong
những sáng thuở hoa niên hơn bốn mươi năm về trước, mà là tiếng rao hàng.
“Xôi bắp đ … a … ây!”
Giọng rao từ lòng hẻm
bên dưới vẳng lên, lảnh lót vài lượt rồi mất hút. Lát sau:
“Ðu đu ... u … đủ!”
Lát sau nữa:
“Bánh chưng, bánh giò!”
Một giọng đàn ông lặp
đi lặp lại, âm thanh nghe rất … hiện đại (Sau đó tôi mới vỡ lẽ, tiếng rao được phát
ra từ một máy ghi âm.)
Bữa điểm tâm đầu
tiên của tôi trong khách sạn là một tô phở tái. Tôi dè dặt nhìn dĩa giá và rau chanh
mơn mởn đặt bên cạnh. Bạn bè tôi bên đó đã dặn dò: “Ði chơi, ăn uống nhớ coi chừng,
nghe! Lỡ bị tiêu chảy là tiêu tùng cả chuyến đi. Không nên ăn mấy thứ sống sít,
tránh uống nước đá, tuyệt đối không đụng tới kem và trái cây gọt vỏ bày bán
ngoài đường phố, mua nước suối trong chai mà uống, chớ động tới nước máy, …” và
nhiều chi tiết “linh tinh” nên tránh khác. Tôi chạnh nghĩ, mình nhúng giá với
rau sống vào nước phở nóng cho chết vi khuẩn rồi … ăn, chắc không sao! Cứ vậy,
tôi sống sót tươi tắn suốt chín ngày ở Sài gòn.
Sau một ngày sum họp
cùng anh chị em và gia đình các cháu tại căn hộ khiêm tốn ở quận Bình Thạnh,
ghé ngang nhà cũ ở đường Ðặng Tất, Tân Ðịnh và vô chùa Vạn Thọ ở Xóm Chùa cúng
bái tro cốt ba má, hôm sau tôi và hai người bạn Ðức rủ nhau đi thăm thành phố.
Chúng tôi đi bộ, vì như vậy mới có thể ngắm nghé tận cùng ngõ ngách. Bạn tôi ngỏ
ý muốn tới viếng chùa Ngọc Hoàng ở Ða kao. Dễ quá, chỗ nầy tôi biết, thuở nhỏ
tôi và anh tôi thỉnh thoảng lại đạp xe tới đó ngắm rùa.
Từ Phạm Ngũ Lão
chúng tôi tản bộ ra chợ Bến Thành, men theo đại lộ Lê Lợi, rẽ qua đường Ðồng Khởi
(Tự Do cũ). Dọc đường bạn tôi muốn ăn thử kem Sài gòn. Nhớ tới lời bạn dặn dò,
tôi lên tiếng cảnh cáo. Bạn tôi cương quyết đòi quyền tự do ăn uống. Tôi gọi
cho bạn tôi một phần kem bốn mùi. Thấy ngon mắt, tôi xin ăn thử. Ngon bất ngờ.
Kem sầu riêng thơm phất, kem khoai môn bùi bẫm, kem dừa béo lịm môi. Mùi vị đậm
đà hương trái chín cây, ngọt ngào nắng nhiệt đới, không đậm hoá chất như kem Ý
tại thành phố tôi cư ngụ.
Ảnh 2: Sạp bán thiệp cắt hoa giấy ở đại lộ Lê Lợi
Trong khi bạn tôi
ăn kem, tôi lân la sà tới một quầy bán thiệp cắt hoa giấy.
“Chú mua mở hàng
giùm tui vài tấm đi chú!” chị bán hàng mời mọc.
Tôi tủm tỉm: “Mở
hàng gì nữa, chị! Sắp mười hai giờ trưa rồi.”
“Tui nói thiệt mà.
Hổm rày hổng bán được tấm nào.” Nói rồi, chị mở sổ chi thu cho tôi xem. “Chú
coi đó, ế ẩm quá trời!”
“Ðược rồi, tôi mua
giúp chị vài tấm. Chị lựa cho tôi tấm nào có hình ảnh Việt nam.”
“Con rồng nghe! Tấm
cô gái gánh hàng nầy cũng đẹp nè chú!”
Chọn lựa và cà kê
chuyện vãn một lát, tôi mua giúp chị bán hàng dễ mến ba tấm với giá một trăm
ngàn đồng. Tâm tư tôi từ nãy tới giờ đã bật lên vô vàn xúc cảm, vì tôi đã gặp gỡ
lại những hàng cây che bóng mát trong thành phố cũ. Và dọc đường Ðồng Khởi (Tự
Do cũ), Nguyễn thị Minh Khai (Hồng Thập Tự cũ) vẫn còn nguyên vẹn hai hàng me
già của một thời xa xưa trước, ba thường dắt anh chị em tôi đi lượm me chín rụng.
Cũng như tôi, giờ đây cây đã mọc thêm nhiều khoanh tuổi, rễ già vạm vỡ đội gạch
vỉa hè như muốn níu chân khách phương xa. Tôi chỉ ngẩn ngơ giây lát, khi đi
ngang góc phố Lê Lợi và Tự Do cũ, nhận ra quán nước Givral đã được tân trang, cửa
kính và bàn ghế bóng loáng. Passage Eden trở thành một trung tâm thương mại với
hàng loạt cửa hàng sang trọng trưng bày những sản phẩm có danh hiệu đáp ứng nhu
cầu những "đại gia". Không còn rạp chiếu bóng Eden, nhà sách Xuân
Thu, mất hút La Pagode, … Tôi lặng lẽ bước đi, không ghé vào. Tôi trở lại đây
không phải để tìm gặp những địa điểm xa xỉ nầy, mà hy vọng nhặt nhạnh tìm lại
những mảnh vụn của thời thanh xuân trong thập niên sáu mươi vào … thế kỷ trước.
Còn, tuy không nhiều, nhưng còn.
Ảnh 3: Hàng me ven đường Ðồng Khởi (Tự Do cũ)
Và tôi thích những khoảnh
khắc chợt nắng chợt mưa khoảng đầu và cuối mùa mưa nơi thành phố nầy. Mưa gột sạch
bụi bặm. Cây lá thay màu lục mới. Khí hậu lắng xuống êm ả. Ðường phố tươi mát như vừa tắm gội
xong, làm vui bước chân ngang qua nhà thờ Ðức Bà và Bưu Ðiện chính lúc nào cũng
nhộn nhịp du khách. Băng qua đại lộ Lê Duẩn (Thống Nhất cũ) về hướng Hồ Con
Rùa, rẽ vào Trần Cao Vân.
Chùa Ngọc Hoàng toạ
lạc đường Mai thị Lựu, phố Ða-kao, về sau còn mang tên là chùa Phước Hải. Tôi
nhớ sân chùa thuở trước rộng thoáng, và bầy rùa trong hồ lớn hơn bây giờ gấp bội.
Chùa thờ Phật, Ngọc Hoàng và nhiều vị thiên tướng theo tam giáo Phật-Khổng-Lão.
Kiến trúc nhiều sắc đỏ, đậm nét đền chùa Trung Hoa, bí ẩn như một pho kinh Phạn
ngữ. Ðiện thờ khói nhang bãng lãng, đèn nến leo lét, soi nhá nhem những tượng thần,
tượng Phật muôn hình vạn tướng. Cột kèo chạm khắc phù điêu tinh xảo. Không biết
có phải vì vậy mà quanh cảnh nơi đây đã thấm sâu tâm tưởng ấu thơ tôi, để nhiều
thập niên sau, bắt tôi hư cấu thành truyện ngắn "Ðền Rùa Vàng"
[i]
đậm đà cảm hứng.
Trên đường về,
chúng tôi ghé ăn trưa tại quán bánh xèo đường Ðinh Công Tráng, phố Tân Ðịnh. Bếp
than và bàn, ghế nhựa thấp bày biện dưới mái hiên một con hẻm ốm. Thực khách
không phải chỉ là dân bản xứ, còn thấy vài du khách da trắng và một bàn toàn phụ
nữ á châu, không rõ người Nam Hàn hay Nhật Bản, đang xí xố rân rang, chắc hẳn
ai cũng đã no bụng.
Bấy giờ, tôi đã không
còn "đố kỵ" rau sống, vì nghĩ rằng, ăn món đặc sản nầy mà không cuốn
bánh với cải xanh và rau sống, chấm với nước mắm chua ngọt thì lạc điệu trăm phần
trăm. Bánh xèo ở đây hơi … bị ngon, nhưng tôi không thể ăn thêm cái thứ hai, vì
bánh lớn và thịt ba chỉ nhiều mỡ màng.
Khẩu vị và bộ phân
tiêu hoá của tôi sau bấy nhiêu thập niên xa nhà đã trở thành một guồng máy kỳ
thị những món ăn quá độ chất béo, ngọt và mặn. Tại đây, một đất nước á châu, nơi
mà miếng ăn thức uống giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong đời sống sinh lý, nếu
không tìm cách thoả hiệp là một thiệt thòi lớn. Một bữa nọ, tôi "bèn"
thức sớm, quảy ba-lô đựng máy ảnh, thẩn thơ ra ngõ thăm thú dân tình. Từ hẻm Phạm
Ngũ Lão trổ ra Bùi Viện, cứ vài chục bước lại thấy hàng xóm kê bàn ghế bày bán
một món điểm tâm: bánh ướt giò lụa, bún riêu, hủ tiếu, … Tôi dừng lại hỏi thăm
chỗ bán xôi bắp. “Chú đi hết đường Bùi Viện, tới đường Cống Quỳnh, ở đó có hai
gánh bán xôi, một bà người Nam một bà người Bắc … Chú ăn thử bánh ướt mới
tráng, ngon lắm!” Thấy có vẻ ngon, nhưng chủ ý tôi tìm mua xôi bắp. “Cám ơn chị,
chút nữa trở lại, tôi sẽ ghé ăn.” Một thoáng thất vọng ửng lên gương mặt thiếu
phụ.
Ra tới Bùi Viện,
quán gánh càng rỡ ràng hương sắc: cơm tấm bì, bún thịt nướng, các món xôi và bắp
nấu nhừ, bánh mì kẹp thịt, bánh bao, phở, v.v… Ðủ loại ê hề. No nê mắt mũi. Ðã
thấy rải rác du khách dạo bước qua lại, thản nhiên tự tại như đã quen mắt trước
cảnh tượng linh hoạt nơi đây.
Thỉnh thoảng tôi dừng
lại, xin phép chụp một tấm ảnh.
“Không được đâu!”
Tôi ngơ ngác: “Sao
lại không được?”
“Có người chụp hình,
đem về bên kia nói xấu!!!”
“Tôi chụp để làm kỷ
niệm thôi mà”, tôi kỳ kèo.
Người đàn bà, trùm
nón, đeo khẩu trang, có lẽ để đầu tóc khỏi bị ám khói thịt nướng, ngần ngừ một
lát rồi thõng tiếng: “Ðược rồi, chụp đi!”
Tới cuối đường, tôi
reo thầm, xôi bắp đây rồi, và tiến lại gánh xôi gặp trước tiên, hỏi mua một phần.
Chị bán hàng nói giọng Nam, vui vẻ hỏi han:
“Chú ở đâu về vậy?”
“Tôi ở Ðức. Lâu lắm
tôi mới có dịp thấy lại món xôi nầy.”
“Chú ăn thử, nếu thấy
ngon, mai trở lại mua nữa nghe!”
Ảnh 6: Một gánh bán xôi ở đường Bùi Viện
Tôi "dạ"
nhỏ, rồi mau mắn bấm máy ghi lại vài tấm ảnh lưu niệm. Băng qua đường, tôi bắt
gặp hai người đàn bà đang lúi cúi múc từng lon một thứ nước màu lá chuối nõn
trông rất bắt mắt rót vào bịch ni-lông, ràng dây thun. Tôi hỏi:
“Bác bán loại thức
uống gì vậy, bác?”
“Sữa đậu nành lá dứa
đó chú.”
“Bác để dành tôi một
bịch, tôi đi một vòng chụp hình rồi trở lại lấy.”
“Chú yên tâm, tui sẽ
để riêng cho chú một túi.”
Lát sau ghé ngang,
tôi nán lại chuyện trò khá lâu với bà bán sữa.
“Tui với đứa con
dâu đây”, bà chỉ vào người đàn bà bên cạnh, từ nãy tới giờ vẫn lặng lẽ làm việc,
“mỗi ngày thức dậy từ sớm để nấu sữa, bán kiếm thêm chút đỉnh, chớ thằng con
trai tui đi làm lương đâu đủ sống ...”
Vừa lúc có một sư
bà đi chân không, ôm bình bát khất thực bước ngang. Bà dúi tờ giấy bạc vô tay
cô con dâu, thúc hối:
“Con, con cúng dường
cho sư!” Rồi xoay qua tôi: “Sư đi chân đất là tu thiệt đó cậu. Thời buổi nầy,
thiệt giả khó biết.” Chỉ vào máy ảnh tôi cầm trên tay, bà ân cần dặn dò: “Chú
nhớ coi chừng nghe. Tiền bạc cũng vậy, nai nịt cho thiệt kỹ, tụi nó cỡi xe gắn
máy chạy ngang vớt một cái, mất luôn. Hồi trước đâu đến nỗi vậy.”
“Hồi trước là khi
nào vậy bác?” tôi hỏi.
“Tui áng chừng, chắc
chú xa nhà lâu rồi, phải hông?”
“Dạ, tôi ra nước
ngoài đi học từ năm 1970.”
“Chú không biết là
phải rồi. Hồi đó chồng tui là sĩ quan trong quân đội cộng hoà. Sau 1975, họ vô
đây, bắt đi học tập, cực lắm chú ơi. Rồi ổng với mấy đứa con trai tui, cũng đi
lính cộng hoà, vượt biển qua Mỹ. Tui với thằng con út kẹt lại. Bây giờ đỡ khổ nhiều
rồi … Ờ mà chú bao nhiêu tuổi vậy?”
Biết được tuổi tôi,
bà tủm tỉm: “Vậy chú phải kêu tui bằng chị mới đúng. Tui mới bảy mươi!”
“Xin lỗi … chị”,
tôi ấp úng cười. Một nỗi xúc động dâng trong lòng tôi, như những bếp lò tưởng
đã nguội lạnh, bất chợt rực lên những đốm lửa đồng hương chân tình.
Như đã hứa, tôi trở
lại hàng bánh ướt trong hẻm, gọi một dĩa thập cẩm. Chị bán hàng rạng rỡ mời tôi
ngồi, lát sau bưng lại môt dĩa ăm ắp bánh, giá trụng, rau sống, chả lụa, chả
giò cắt khúc, cải ngọt luộc, hành phi và một chén nước mắm pha. Cũng ngon,
nhưng bánh hơi nguội.
Ðang ăn, từ căn nhà
nhiều tầng đối diện, một người đàn bà đẫy đà, mặc đồ bộ, trang điểm tỉ mỉ, dáng
vẻ như bà chủ bước ra. Bà chào tôi, giọng Bắc cũ, khơi chuyện:
“Ông anh ăn có ngon
không?”
“Dạ, ngon.”
Rồi bà thản nhiên kê
khai lý lịch:
“Tôi vô sống ở khu
phố này từ năm 1951. Láng giềng ở đây, tôi biết hết. Mấy năm nay, du khách Tây
và Việt kiều về chơi đông lắm. Ông anh xa nhà đã lâu, bây giờ về lại chắc thấy
nhiều thay đổi?”
“Vâng, nhộn nhịp và
đông đúc hơn trước nhiều lắm.”
“Thành phố phát triển
không kịp thở. Lần tới ông anh về chơi, chắc chắn lại đổi khác.”
Ðúng vậy, Sài gòn
bây giờ, tại những trục điểm giao thông và thương mại thuận lợi, người đông như
trẩy hội. Vào giờ tan sở, hàng loạt xe gắn máy túa ra đường phố. Kèn bấm inh ỏi.
Kẹt xe, vắng mặt cảnh sát lưu thông, dân chúng lách lên lề đường chạy tiếp. Như
có phép lạ, suốt chín ngày lưu lại thành phố nầy, chưa lần nào tôi chứng kiến
tai nạn giao thông.
Ảnh 8: Lưu thông ở Sài
gòn chiều tan sở
Ðêm xuống ở phố Tây
ba-lô, giao điểm Phạm Ngũ Lão - Ðề Thám - Bùi Viện, du khách Âu Á và dân bản xứ
tuôn ra chiếm lĩnh các cửa hàng ăn uống. Những quán bia bình dân bày bàn thấp
ghế con ra vỉa hè, khách da trắng da vàng ngồi chen vai, hoạt náo chuyện trò át
tiếng nhạc mở lớn. Ðó đây lượn là qua lại các xe bán quà vặt, các thiếu nữ mời
chào những món vật kỷ niệm, xe bán dĩa nhạc di động mở lớn một ca khúc thời thượng,
các nam thanh niên lượn lờ xe đạp, rung thanh sắt lắc xắc …
“Mấy
người đó làm cái gì vậy?” bạn tôi hỏi.
“Họ
là dân đấm bóp dạo đó mà.”
Trước mấy cửa tiệm
tẩm quất, các cô tiếp viên, thanh xuân mơn mởn, trong đồng phục váy ngắn tụ năm
tụ ba, tươi cười mời chào khách đàn ông. Một xe bán hột vịt lộn, hột gà vữa trờ
tới. Các cô ngoắc lại, tíu tít. Mỗi cô một dĩa nhựa, vài trứng vịt lộn, một
nhúm rau răm, chút muối tiêu, một cái muỗng con, xì xụp. Thoảng hoặc, một khách
da trắng dừng bước hỏi han, các cô nhanh nhẩu xúm quanh, líu lo chào đón. Lại
tíu tít.
Tôi và bạn ngồi
trong một quán ăn đối diện, quan sát. Sực, tôi nhớ tới mẩu đàm thoại trà dư tửu
hậu với bạn bè năm nào ở xứ người về tình trạng mở mang kinh tế ở Việt nam. “Các
bạn có để ý điểm này, nhiều quốc gia trong giai đoạn chuyển tiếp từ phát triển
sang tiến bộ, áp dụng chính sách kinh tế thị trường, mở cửa đón tiếp du khách, không
ít đàn bà con gái xứ đó xả thân làm điếm để kiếm sống!!!” Một quan điểm cực kỳ
táo bạo! Mọi người nhìn tôi như nhìn một quái vật biết nói tiếng người. “Tỷ dụ
như trường hợp Nhật Bản, Nam Hàn sau thế chiến thứ hai. Bây giờ tới lượt Thái
Lan, Phi Luật Tân và Việt Nam. Thời kỳ chuyển tiếp nầy kéo dài bao lâu tuỳ thuộc
vào tình trạng chính trị, kinh tế và bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc.” Các bạn
tôi ồn ào phản đối. Tôi lằng nhằng chống chế, vô hiệu quả.
Giờ đây, chứng kiến
cảnh sinh hoạt về đêm của các cô gái tẩm quất, đáy lòng tôi xót xa tựa muốt xát.
Hoàn cảnh và thân phận phụ nữ Việt Nam hiện nay và trước đó, lúc quân đội Hoa Kỳ
còn hiện diện tại đây, đâu khác gì nhau. Khác chăng là hiện tại không còn hiểm
hoạ chiến tranh.
Ðô thị phát triển rộng
ra ven đô. Có thể thấy rõ điều nầy lúc chúng tôi mướn một xe bảy chỗ ngồi đi tắm
biển Vũng Tàu. Dọc đường, từ Biên Hoà tới Long Thành, Bà Rịa, nhà ở, quán xá
hai bên đường mọc lên san sát. Không còn những chéo rừng cao su rậm bóng. Vắng
đi những cánh đồng tít tắp tận chân núi. Ðường bốn lằn rộng rãi. Chợ Bà Rịa,
bây giờ, được mở rộng. Nhà lồng chợ tương đối sạch sẽ. Chúng tôi ghé lại mua thêm
vài món còn thiếu cho bữa ăn trưa ngoài bãi. Gần tới biển, nhà cửa thưa hẳn. Vài
cụm mây ngủ quên trên khung trời ngưng gió. Núi thấp hiện lên xa xa. Rạch ngòi
nước lợ loang loáng nắng.
“Ðây là cầu Cỏ May”,
anh tài xế cho biết.
“Hồi xưa báo đăng
tin, có ba cô gái ban đêm lái xe ra Cấp [ii]. Lèo lái làm sao không
biết, tới đây đâm xe xuống sông chết tốt! Dân chúng có xây miễu thờ”, tôi thêm
thắt.
“Chắc tại ngủ gục!”
em gái tôi chêm vào.
Miễu ba cô không
còn đó. Những cồn đước bị khai quang, rạch ngòi trần trụi trong nắng. Ngũ quan
tôi nôn nao giây phút tái ngộ những hình ảnh, mùi hương những chủ nhật đi Cấp tắm
biển của bốn mươi năm về trước … Ðường nhựa ốm, chỉ hai chiều ngược xuôi. Những
đồn lính canh hai đầu cầu. Mùi cá khô quanh quánh trong không khí, lúc xe lăn
chậm vào phố biển. Ngay trung tâm thị xã, bãi Trước cát lầy, lặng sóng ẩn hiện sau
dãy hàng quán danh hiệu mỹ miều. Xe leo dốc, vượt đèo núi Lớn ra bãi Sau. Một
bên là vách đá, bên kia là Thái Bình dương nhấp nhô bọt sóng. Trong xe, lũ trẻ
con chúng tôi bắt đầu nô nức … thoát y, trơ trụi cái quần tắm mặc sẵn từ nhà. Rặng
thuỳ dương lưa thưa cồn cát mịn. Trưa nước xuống, bãi cát thênh thang hứng nắng
đại dương. Bầy dã tràng thoáng hiện thoáng mất như ảo ảnh … Ðứa trẻ nhỏ
trong tôi đang trên đường lượm lặt những mẩu giấy bìa cắt vụn puzzle, hối
hả ráp nối tấm ảnh thời hoa niên cũ.
Chưa tìm ra miếng nào
thì anh tài xế đã ngoặt xe, rẽ vào vào bãi đậu trong một trung tâm du lịch khang
trang. Tôi ngơ ngẩn vài giây:
“Ủa, tôi cứ tưởng
phải chạy ngang bãi Trước, vòng qua núi Lớn.”
“Bây giờ bãi Sau được
nới rộng ra tới đây”, anh tài xế giải thích. “Chỗ nầy được cái, tiền mướn lều
bao hết mọi thứ, khách không phải trả thêm lắt nhắt.”
Chúng tôi mướn một túp
trong dãy lều dựng hàng loạt trên thềm đắp xi-măng, lối đi lát gạch nung bên
hàng dừa kiểng nghiêng cành. Trong lều bày sẵn bàn thấp và hai hàng ghế bố, khoảng
hơn chục chiếc. Ngày trong tuần, bãi tắm thưa khách. Tôi an tâm thấy lại bầy
còng gió vẫn quấn quýt xe cát trên bãi. Thoắt hiện thoắt biến theo cơn chấn động
của đất, theo từng bước chân tôi. Như thể chúng đang lắp ráp giùm tôi những khoảng
hư hao trong trí nhớ. Không, chúng đang làm công việc đã được tôi thơ thẩn ghi
chép một lần nào đó: "Dã tràng khâu vá mộng tuổi thơ". Tôi vô
tình nhớ lại và xúc động vu vơ ... Bãi sạch, nước biển và nắng ấm. Các bạn tôi
ra chiều đắc ý, muốn ở chơi tới khi chiều xuống.
Trên đường về,
chúng tôi tạt ngang Ðại Tòng Lâm Tự ở xã Phú Mỹ, thuộc tỉnh Bà Rịa. Tháng mười,
đêm buông hấp tấp như úp bàn tay. Mới đó mà bóng tối đã tràn lan, chập choạng
phủ xuống ba tượng Phật Thích Ca Tam Môn vĩ đại bên hồ phóng sanh. Dẫu tối,
chúng tôi cũng tản bộ về hướng chánh điện uy nghi sáng đèn trên đỉnh đồi thấp.
Ngoài chúng tôi và một vài sư cô, sư chú chân không qua lại trên nền lát gạch
bông sạch bóng, không thấy ai khác bên trong. Tôi bắt chước em và cháu tôi, lúng
túng đãnh lễ Phật. Trong khoảnh khắc xếp bằng ngồi xuống nơi đây, ngước mặt lên
điện thờ rực rỡ tượng vàng, hương hoa đèn nến sáng choang, ý thức tôi bật ra điểm
khác biệt giữa hai ý niệm "đi" và "về". Tôi mù mờ không rõ,
mình đang "về" rồi lại "đi". Hay ngược lại?
Một ngày viếng thăm
thành phố biển thời hoa niên được kết thúc bằng bữa cơm tối đậm đà bản sắc quê
hương trong một quán ăn rộng thoáng ở Bà Rịa với canh chua cá chẽm, cá kho tộ,
tôm rim và rau cải luộc.
Ðêm trở lại khách sạn,
giữa khuya mưa quất bầm dập mái nhà. Sấm sét thịnh nộ rách trời. Vậy mà sáng dậy,
nắng mới tưới chan hoà đường phố. Hẻm hốc ráo hoảnh, như thể trận mưa đêm qua
chỉ là một giấc mộng thời tiết. Lại văng vẳng tiếng rao hàng quen thuộc. Ðường
phố lại giăng mắc xe cộ ngược xuôi, người qua kẻ lại, tưng bừng. Mớ ngôn ngữ
quen tai. Tiết trời nhiệt đới, đực cái khó lường, như một người bạn nóng nảy
nhưng nhiệt tình, đáng tha thứ nhiều hơn đáng giận.
Chín ngày trong
thành phố hoa niên sau 39 năm trời xa cách đã lưu lại tâm tư tôi nhiều cảm xúc
và hình ảnh đậm nét. Chín ngày, quá ngắn để nhận ra
"chân diện mục". Dẫu vậy, bên cạnh thứ tình cảm ruột thịt, là điều hẳn
nhiên, tôi còn nhận ra riềng mối giữa tôi với con người và đất đai nơi đây, day
dứt. Không giống như xưa, nhưng vẫn hiện hữu, như những mảnh vá quàng trên manh
áo tả tơi của quê nhà sau nhiều năm chinh chiến. Mảnh chuyện vãn về thời cuộc bể
dâu của người đàn bà đôn hậu bán sữa đậu nành. Mảnh tâm tư của chú em bán xôi ở
cửa Tây chợ Bến Thành, lợi tức mỗi ngày vừa đủ nuôi vợ và má. Mảnh tử tế nhiệt
tâm của các em nhân viên khách sạn khi mời tôi dùng điểm tâm với một chén tàu hũ
nước đường, bột khoai, chan nước cốt dừa. Mảnh nắng mảnh mưa, mảnh tiếng động
thường ngày, mảnh phố thâm niên, mảnh tường gạch lở trong những nẻo đường chằng
chịt, mảnh ăn mảnh uống, … Giá như chúng biết kể chuyện và phân bua!!! Nhưng đó
đây vẫn loang lỗ nhiều chỗ rách chưa kịp khâu vá trên tấm áo quê nghèo.
Tôi, như một người khảo cổ không chuyên nghiệp, nhân
chuyến viếng thăm thân bằng quyến thuộc, săm soi khơi quật những dấu tích của
thời hoa niên vùi sâu dưới cát bụi thời gian. Lắm khi hụt hẫng vì một hương vị,
một địa điểm, một hình bóng đã biệt tăm. Có những mất mát, nhỏ nhoi thôi, nhưng
thấm thía. Nhưng đành vậy, vì đâu có gì bền vững mãi với thời gian. Ðể rồi, sau
đó, tôi ý thức rốt ráo lý lẽ của "đi, về". Với tôi bây giờ, "đi"
và "về" không cùng một nghĩa như nhau.
(Ðức, tháng 12. 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét